Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Cảm xúc, tản mạn về đất nước con người Bình Định, những gửi gắm tâm tình qua các danh lam thắng cảnh, địa danh, dấu xưa thành cũ...

Moderator: Bình Lâm

Postby longevityqn on Wed Jan 10, 2007 8:52 am

Thank anh Turbo!
Chỉ có trời mới biết tại sao tui yêu đội Bình Định.
User avatar
longevityqn
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 77
Joined: Wed Oct 05, 2005 6:51 am
Location: Nguoi Nha nuoc
Top

Re: Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Postby hoa_ct on Mon Feb 26, 2007 7:17 am

Em hỏi chút, người anh hùng Ngô Mây ở đèo An Khê thuở nhỏ có nghe lóang thóang, sao sau này đi bất cứ đâu cũng không ai biết và nhắc tới?
hoa_ct
Thành viên
 
Posts: 33
Joined: Tue Feb 13, 2007 4:18 pm
Top

Re: Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Postby Bình Lâm on Tue Feb 27, 2007 8:55 am

hoa_ct wrote:Em hỏi chút, người anh hùng Ngô Mây ở đèo An Khê thuở nhỏ có nghe lóang thóang, sao sau này đi bất cứ đâu cũng không ai biết và nhắc tới?

Ngô Mây quê ở Phù Cát. Hiện nay tên ông được đặt cho thị trấn quê hương. Dân gian gọi TT Phù Cát nhưng giấy tờ thì ghi TT Ngô Mây.
Image
Hãy vào NkMh.net để cùng ca hát
Bình Lâm
Ban huấn luyện
 
Posts: 884
Joined: Mon Apr 19, 2004 12:10 am
Location: Tuy Phước (Gia Lai)
Top

Re: Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Postby lehavu on Mon Jun 25, 2007 6:16 pm

Có câu hỏi về An Khê thấy hình như Anh Bình Lâm chưa trả lời, tôi có thông tin chia sẻ đây:
An Khê thời xa xưa gọi là thôn An Khê, thuộc ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly, phủ Qui Nhơn. Thời nhà Nguyễn An Khê là ấp An Tây, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Đến thời Pháp thuộc, An Khê thuộc tỉnh Gia Lai gọi là huyện Haut Dakpa, sau đổi là huyện An Khê. Năm 1959 An Khê thành huyện An Túc, tỉnh Bình Định. Sau năm 1975 lấy lại tên cũ là huyện An Khê, trực thuộc tỉnh Gia Lai. Hiện nay huyện An Khê đổi thành huyện Dakpơ và trị trấn An Khê được nâng lên thành thị xã.
An Khê nằm trên Quốc lộ 19 nối liền hai thành phố Qui Nhơn và Pleiku bằng đèo An Khê. Người Bahnar gọi đèo này là đèo Mang, có nghĩa là cửa ngõ. Đất An Khê thuở xưa còn gọi là đất Tây Sơn nhưng để phân biệt giữa vùng cao và vùng thấp, người ta gọi An Khê là Tây Sơn thượng đạo. Nơi đây có nhiều di tích lịch sử mang nặng dấu ấn nhà Tây Sơn và có nhiều danh thắng hữu tình đáng được tham quan, nghiên cứu.

Những ai đã từng đến An Khê mới thấy hết được tầm quan trọng của địa thế núi non ở đây. Từ trên đỉnh đèo, du khách có thể trông thấy dễ dàng đường đèo quanh co uốn khúc quanh chân núi Ông Bình hiên ngang, sừng sững. Xa xa là dòng sông Côn thướt tha như dải lụa xuôi về Phú Phong, Kiên Mỹ - quê nhà của Tây Sơn tam kiệt. Ở sườn núi Ông Bình có hang sâu, ngày xưa quân Tây Sơn làm nơi tích trữ quân lương cho nên gọi là kho “binh lương đồ trận”. Ở phía Đông Nam đèo là núi Ông Nhạc hay Ông Nhược bề thế chẳng kém, ngày xưa là nơi nghỉ quân của quân đội Tây Sơn.

Địa thế An Khê hiểm trở dường ấy nên thuở trước, người miền xuôi lên An Khê đâu phải dễ dàng:

Không đi thì mắc cái eo
Ra đi thì sợ cái đèo An Khê

Ngày nay, Quốc lộ 19 đã được nâng cấp, đường đèo rộng thênh thang tráng nhựa phẳng lì. Từ trên đỉnh đèo, theo quốc lộ đi về hướng Tây, gặp chiếc cầu đầu tiên có một cái miếu nhỏ nằm bên đầu cầu, xưa gọi là miếu Xà, nơi Nguyễn Nhạc chém rắn tế cờ khởi nghĩa. Lúc đến ngã ba Đồng Găng có đường rẽ sang tay phải đi về hướng Bắc sẽ đến Cửa An, Tú Thủy (nay là Tú An), Kannack. Tại Tú Thuy (nay thuộc thị xã An Khê) có một cánh rừng mang tên rừng Mộ Điểu hay núi Hoàng Đế và cánh đồng mang tên Cô Hầu, là nơi nghĩa quân Tây Sơn lập doanh trại và thành lập kho lương thực để chuẩn bị cho công cuộc khởi nghĩa. Núi Hoàng Đế là nơi Nguyễn Nhạc từng đóng đại bản doanh để chỉ huy ba quân tướng sĩ, và cánh đồng Cô Hầu do nàng Yă Đó, ái thiếp của Nguyễn Nhạc đứng ra canh tác để cung cấp lương thực cho nghĩa quân Tây Sơn.

Từ ngã ba Đồng Găng đi về hướng Tây sẽ đến trung tâm thị xã An Khê. Phố núi ở đây nho nhỏ, xinh xinh nằm dọc theo Quốc lộ 19 và đôi bờ Dakpa. Phía Nam thị xã là lũy Ông Nhạc, nay vẫn còn dấu tích là đình An Lũy quanh năm hương khói phụng thờ Tây Sơn tam kiệt. Ở cuối chân trời là núi Chà Diêm (nơi chế tạo vũ khí của quân đội Tây Sơn), núi Hảnh Hót (nơi thuần dưỡng bầy ngựa rừng), gần đó còn có hồ Ông Nhạc nằm bên dòng sông Dakpa. Ở phía tây bắc thị xã, hòn Kong nhô cao, sườn phủ đầy cỏ gai và sỏi đá, trên đỉnh có giếng Tiên. Thuở xưa, quân đội Tây Sơn đã đặt đồn canh trên đỉnh núi để kiểm soát cả vùng Tây Sơn thượng đạo. Dưới chân núi là dòng Dakpa trong xanh, thơ mộng và trữ tình len lỏi chảy qua các nương rẫy, núi đồi...

Thời Pháp thuộc, An Khê từng là bãi chiến trường và là mồ chôn giặc Pháp. Những địa danh như Cửu An, Tú Thủy, Kannack, đèo An Khê đã đi vào chiến sử.

Thời chống Mỹ, năm 1975, quân và dân An Khê đánh chiếm đèo An Khê, cô lập Tây Nguyên, góp phần tạo nên đại thắng mùa xuân lịch sử.

Qua bao nhiêu thăng trầm, rưng núi An Khê vẫn âm thầm phát triển, thay da đổi thịt để theo kịp với miền xuôi. An Khê là nơi “đi dễ khó về”, đúng như câu ca truyền tụngAn Khê có núi hòn Kong
Có rừng Hảnh Hót, có dòng sông Ba
Có đồng cỏ mướt bao la
Vườn cây đơm trái nở hoa bốn mùa.:
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 215
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Top

Re: Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Postby lehavu on Mon Jul 02, 2007 10:32 am

TRẢ LỜI VỀ TÊN GỌI ĐẦM THỊ NẠI ĐÂY!!!
Đầm Thị Nại là một đầm nước mặn nằm trên địa phận thành phố Qui Nhơn, huyện Tuy Phước, huyện Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, có diện tích hơn 5.000 ha. Một phần nhỏ của đầm Thị Nại được sử dụng làm cảng biển (Cảng Quy Nhơn). Địa danh này có âm gốc tiếng Champa gọi đầy đủ là Thi Lị Bi Nại, tên phiên âm chữ Cri-Banoi là tên hải cảng của Vương quốc Champa; người Hoa gọi cảng này là Tân Châu.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia(
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 215
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Top

Re: Hỏi nhanh dáp gọn về Nước Non Bình Định

Postby xuanphu150 on Wed Sep 19, 2007 4:41 am

Trời ơi, ngưỡng mộ Bình Lâm quá. Phải học hỏi nhiều mới được. Những câu hỏi này nhiếu lúc không biết đườngmà trả lời ấy chứ
Hết mình vì bóng đá Bình Định
User avatar
xuanphu150
Thành viên
 
Posts: 48
Joined: Thu Oct 26, 2006 5:51 pm
Location: Phù Cát - Bình Định
Top

Re:

Postby baochi on Wed Oct 10, 2007 6:38 am

taysonphuchung wrote:
Bình Lâm wrote:
anlac wrote:Hẹ hẹ, cho tui hỏi một chút về Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) ạ!

Võ Duy Dương
( -ất sửu 1865)

Anh hùng chống Pháp, tổ tiên gốc ở Nghia Hành, Qu?ng Ngãi, sau dời vào ở Gia Định.Ông giỏi nghề võ, có tài sản và thường đem của cải làm việc phúc lợi cho nhân dân, nên được triều đình phong tặng chức Thiên hộ, đời sau gọi ông là Thiên Hộ Dương. Và vì ông có tài nhắc một lúc năm trái linh bằng sắt, nên nhân dân cũng xưng tụng ông là Ngũ Linh Thiên Hộ Dương.

Anh Bình Lâm ơi, tôi còn thắc mắc ở cái chỗ tô đỏ ấy. Thiên Hộ Dương là người Quảng Ngãi, nhưng sao lăng của ông lại được xây ở Bình Định và được người Bình Định thờ cúng.
Hôm trước về quê tôi thấy lăng mộ Võ Duy Dương được xây dựng cạnh Quốc lộ 19, trên địa bàn Xã Nhơn Tân, Huyện An Nhơn, Tỉnh Bình Định (Cạnh trạm thu phí An Nhơn). Tôi mới dừng xe và hỏi thăm người dân quanh vùng, và được biết con cháu ông hiện sống ở Nhơn Tân (quanh lăng của ông) rất đông, trong đó còn có một lão võ sư nữa. Anh Bình Lâm ngâm cứu lại cái này cho tui với!

Có lẽ Quảng Ngãi là anh Bình Lâm nói về tổ tiên Võ Duy Dương. Tài liệu của tôi sưu tầm thì Võ duy Dương người Bình Định

Võ Duy Dương: Anh hùng chống Pháp ở Đồng Tháp Mười

Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại làng Cù lao Nam, xã Nhơn Tân, huyện Anh Nhơn (Bình Định). Tổ tiên Võ Duy Dương ở miền Bắc, vào miền Trung sinh sống và định cư ở Bình Định, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6.
Thuở nhỏ Võ Duy Dương là người sáng trí, khỏe mạnh hơn người, có lần đến kinh thành Huế, ông đã trổ tài cắp một lúc 2 trái linh lại xách 2 trái, răng cắn 1 trái, mỗi trái linh bằng sắt nặng chừng vài chục kg nên nhân dân xưng ông là Ngũ Linh. Ông là người thường đem của cải trong nhà giúp đỡ dân nghèo nên được triều đình phong tặng chức Thiên Hộ và nhân dân xưng tụng ông là Ngũ Linh Thiên Hộ Dương.

Năm 28 tuổi, biết tin trong Nam có phong trào chống Pháp dấy lên mạnh mẽ, ông đã vào Nam ra đầu quân vào Nghĩa quân của Trương Định, chiêu nạp dân nghèo lập ấp vừa sản xuất và sẵn sàng ứng chiến. Ngày 5-6-1862, triều đình Huế đã ký hiệp ước với Pháp tại Sài Gòn giao trọn 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp và vua Tự Đức xuống chỉ dụ buộc các lãnh tụ kháng chiến phải bãi binh. Không chấp nhận điều đó, Võ Duy Dương đã liên tục tổ chức tiến công quân giặc.

Năm 1864, chủ soái Trương Định hy sinh, Võ Duy Dương lãnh đạo nghĩa quân rút về Đồng Tháp Mười lập chiến khu để chiến đấu lâu dài. Căn cứ này rất kiên cố. Năm 1865, một tờ trình của quân đội Pháp cho biết như sau: Căn cứ Đồng Tháp Mười “Chỉ có ba con đường mòn vào Tháp Mười: Một từ gò Bắc Chiêng đi vào, một đường từ rạch Cần Lố đi lên và một đường từ Cái Nứa đi lại. Đường thứ nhất đi qua đồn Tả, đường thứ nhì đi qua đồn Hữu và đường thứ ba đi qua đồn Tiến. Ba đồn ấy che chở cho tổng hành dinh ở Tháp Mười. Đồn nào cũng có lũy đất chung quanh, cao chừng 2 thước rưỡi, dài khoảng thước rưỡi, trong và ngoài lũy là một hàng cừ bằng sao. Lũy có đục cửa và nhiều lỗ để nhắm ra ngoài. Mỗi đồn chứa từ 200 đến 300 nghĩa quân... Ngoài ra còn có năm sáu đồn nhỏ ở xa tổng hành dinh. Vậy tổng số binh có tới 1.000, trong đó có nhiều lính Tagan (Lê Dương) và một lính Pháp đào ngũ...”. Nghĩa quân của Võ Duy Dương đã chiến đấu thắng lợi nhiều trận vang dội ở Mỹ Trà, Cai Lậy, Cao Lãnh... Về sau tướng Pháp De Lagrandière đã chỉ huy lực lượng hùng hậu đến đàn áp căn cứ Đồng Tháp Mười. Nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng ngoan cường. Hàng trăm con trâu được huấn luyện đã giao chiến với giặc, ngoài ra nghĩa quân còn dùng cả ong, rắn để giết giặc. Với đoàn quân như thế, giặc Pháp bất ngờ và thương vong nhiều. Sau một thời gian cầm cự, biết không thể giữ được Võ Duy Dương đã về An Giang và liên lạc với các thủ lĩnh chống Pháp khác để hoạt động. Ở An Giang ông liên hệ với thủ khoa Nguyễn Hữu Huân để bàn tính hợp đồng tác chiến, song bọn quan lại ở đây đã lừa bắt Nguyễn Hữu Huân nộp cho Pháp. Ngũ Linh Thiên Hộ Dương phẫn uất và thổ huyết và mất vào tháng 10-1866. Cuộc khởi nghĩa do Võ Duy Dương lãnh đạo đã kéo dài được tới 7 năm (1859-1866). Ông đã thể hiện được tầm nhìn và bản lĩnh của người cầm quân có tài, liên kết được các lực lượng kháng chiến để hợp đồng chiến đấu kể cả việc liên minh với dân tộc Khơme để chống kẻ thù chung.

Thiên Hộ Dương mất khi ông 39 tuổi. Nhân dân Đồng Tháp Mười rất tự hào và kính nhớ người anh hùng chống Pháp của mình. Tại di tích lịch sử quốc gia Gò Tháp ở xã Mỹ Trà, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp) hàng năm vẫn tổ chức lễ hội tưởng niệm Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc binh Kiều và những nghĩa sĩ bỏ mình vì nước. Trong đền thời có câu đối thờ như sau:

“Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ
Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh”

Võ Duy Dương và những tướng sĩ của ông bất tử trong truyền thống hào hùng của dân tộc và sống mãi với các thế hệ mai sau.

THÁI GIA THƯ
baochi
Thành viên
 
Posts: 43
Joined: Sat Apr 22, 2006 1:17 am
Location: Bí mật!!!
Top

Re:

Postby baochi on Wed Oct 10, 2007 6:39 am

chapi wrote:Trương Định hay là Trương Công Định hả các bác? Lúc trước tôi có đọc một số sách lịch sử dạy cho học sinh Đệ Thất trước năm 1975 thì tên người khởi nghĩa chống Pháp ở Gò Công là Trương Công Định chứ không phải Trương Định như các sách bây giờ viết?!

Bác nào có thông tin về việc này xin giải thích giùm.

Trương Định hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định là 1
baochi
Thành viên
 
Posts: 43
Joined: Sat Apr 22, 2006 1:17 am
Location: Bí mật!!!
Top

Previous

Post a reply

Smilies
em22 em36 em26 em39 em29 em35 em31 em34 em32 :D :) ;) :( :o :shock: :? 8-) :lol: :x :P :oops: :cry: :evil: :twisted: :roll: :!: :?: :idea: :arrow: :| :mrgreen: :geek: :ugeek:
Gõ tiếng Việt Tắt Telex VNI VIQR Tuỳ ý
Quote Selected
 

Return to Nước non Bình Định

Who is online

Users browsing this forum: Alexa [Bot] and 0 guests