taysonphuchung wrote:
Bình Lâm wrote:
anlac wrote:Hẹ hẹ, cho tui hỏi một chút về Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) ạ!
Võ Duy Dương
( -ất sửu 1865)
Anh hùng chống Pháp, tổ tiên gốc ở
Nghia Hành, Qu?ng Ngãi, sau dời vào ở Gia Định.Ông giỏi nghề võ, có tài sản và thường đem của cải làm việc phúc lợi cho nhân dân, nên được triều đình phong tặng chức Thiên hộ, đời sau gọi ông là Thiên Hộ Dương. Và vì ông có tài nhắc một lúc năm trái linh bằng sắt, nên nhân dân cũng xưng tụng ông là Ngũ Linh Thiên Hộ Dương.
Anh Bình Lâm ơi, tôi còn thắc mắc ở cái chỗ tô đỏ ấy. Thiên Hộ Dương là người Quảng Ngãi, nhưng sao lăng của ông lại được xây ở Bình Định và được người Bình Định thờ cúng.
Hôm trước về quê tôi thấy lăng mộ Võ Duy Dương được xây dựng cạnh Quốc lộ 19, trên địa bàn Xã Nhơn Tân, Huyện An Nhơn, Tỉnh Bình Định (Cạnh trạm thu phí An Nhơn). Tôi mới dừng xe và hỏi thăm người dân quanh vùng, và được biết con cháu ông hiện sống ở Nhơn Tân (quanh lăng của ông) rất đông, trong đó còn có một lão võ sư nữa. Anh Bình Lâm ngâm cứu lại cái này cho tui với!
Có lẽ Quảng Ngãi là anh Bình Lâm nói về tổ tiên Võ Duy Dương. Tài liệu của tôi sưu tầm thì Võ duy Dương người Bình Định
Võ Duy Dương: Anh hùng chống Pháp ở Đồng Tháp Mười
Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại làng Cù lao Nam, xã Nhơn Tân, huyện Anh Nhơn (Bình Định). Tổ tiên Võ Duy Dương ở miền Bắc, vào miền Trung sinh sống và định cư ở Bình Định, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6.
Thuở nhỏ Võ Duy Dương là người sáng trí, khỏe mạnh hơn người, có lần đến kinh thành Huế, ông đã trổ tài cắp một lúc 2 trái linh lại xách 2 trái, răng cắn 1 trái, mỗi trái linh bằng sắt nặng chừng vài chục kg nên nhân dân xưng ông là Ngũ Linh. Ông là người thường đem của cải trong nhà giúp đỡ dân nghèo nên được triều đình phong tặng chức Thiên Hộ và nhân dân xưng tụng ông là Ngũ Linh Thiên Hộ Dương.
Năm 28 tuổi, biết tin trong Nam có phong trào chống Pháp dấy lên mạnh mẽ, ông đã vào Nam ra đầu quân vào Nghĩa quân của Trương Định, chiêu nạp dân nghèo lập ấp vừa sản xuất và sẵn sàng ứng chiến. Ngày 5-6-1862, triều đình Huế đã ký hiệp ước với Pháp tại Sài Gòn giao trọn 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp và vua Tự Đức xuống chỉ dụ buộc các lãnh tụ kháng chiến phải bãi binh. Không chấp nhận điều đó, Võ Duy Dương đã liên tục tổ chức tiến công quân giặc.
Năm 1864, chủ soái Trương Định hy sinh, Võ Duy Dương lãnh đạo nghĩa quân rút về Đồng Tháp Mười lập chiến khu để chiến đấu lâu dài. Căn cứ này rất kiên cố. Năm 1865, một tờ trình của quân đội Pháp cho biết như sau: Căn cứ Đồng Tháp Mười “Chỉ có ba con đường mòn vào Tháp Mười: Một từ gò Bắc Chiêng đi vào, một đường từ rạch Cần Lố đi lên và một đường từ Cái Nứa đi lại. Đường thứ nhất đi qua đồn Tả, đường thứ nhì đi qua đồn Hữu và đường thứ ba đi qua đồn Tiến. Ba đồn ấy che chở cho tổng hành dinh ở Tháp Mười. Đồn nào cũng có lũy đất chung quanh, cao chừng 2 thước rưỡi, dài khoảng thước rưỡi, trong và ngoài lũy là một hàng cừ bằng sao. Lũy có đục cửa và nhiều lỗ để nhắm ra ngoài. Mỗi đồn chứa từ 200 đến 300 nghĩa quân... Ngoài ra còn có năm sáu đồn nhỏ ở xa tổng hành dinh. Vậy tổng số binh có tới 1.000, trong đó có nhiều lính Tagan (Lê Dương) và một lính Pháp đào ngũ...”. Nghĩa quân của Võ Duy Dương đã chiến đấu thắng lợi nhiều trận vang dội ở Mỹ Trà, Cai Lậy, Cao Lãnh... Về sau tướng Pháp De Lagrandière đã chỉ huy lực lượng hùng hậu đến đàn áp căn cứ Đồng Tháp Mười. Nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng ngoan cường. Hàng trăm con trâu được huấn luyện đã giao chiến với giặc, ngoài ra nghĩa quân còn dùng cả ong, rắn để giết giặc. Với đoàn quân như thế, giặc Pháp bất ngờ và thương vong nhiều. Sau một thời gian cầm cự, biết không thể giữ được Võ Duy Dương đã về An Giang và liên lạc với các thủ lĩnh chống Pháp khác để hoạt động. Ở An Giang ông liên hệ với thủ khoa Nguyễn Hữu Huân để bàn tính hợp đồng tác chiến, song bọn quan lại ở đây đã lừa bắt Nguyễn Hữu Huân nộp cho Pháp. Ngũ Linh Thiên Hộ Dương phẫn uất và thổ huyết và mất vào tháng 10-1866. Cuộc khởi nghĩa do Võ Duy Dương lãnh đạo đã kéo dài được tới 7 năm (1859-1866). Ông đã thể hiện được tầm nhìn và bản lĩnh của người cầm quân có tài, liên kết được các lực lượng kháng chiến để hợp đồng chiến đấu kể cả việc liên minh với dân tộc Khơme để chống kẻ thù chung.
Thiên Hộ Dương mất khi ông 39 tuổi. Nhân dân Đồng Tháp Mười rất tự hào và kính nhớ người anh hùng chống Pháp của mình. Tại di tích lịch sử quốc gia Gò Tháp ở xã Mỹ Trà, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp) hàng năm vẫn tổ chức lễ hội tưởng niệm Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc binh Kiều và những nghĩa sĩ bỏ mình vì nước. Trong đền thời có câu đối thờ như sau:
“Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ
Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh”
Võ Duy Dương và những tướng sĩ của ông bất tử trong truyền thống hào hùng của dân tộc và sống mãi với các thế hệ mai sau.
THÁI GIA THƯ