by quynhoner » Tue Dec 04, 2012 2:42 am
Năm 1975.
Những ngày đầu tiên đất nước được giải phóng. Thỉnh thoảng nhà tôi lại có vài người khách mặc đồ bộ đội đến thăm. Họ đều lớn tuổi hơn cha tôi lúc đó (cha tôi sinh năm Mậu Ngọ 1918) Tôi chỉ nghe cha tôi gọi họ bằng anh. Chỉ biết rằng các cụ là những người cùng quê đi tập kết và cha tôi cùng với Cụ Nguyễn Hữu Phú (thường gọi là Ba Tại )là những người đưa các Cụ từ Phù Mỹ vào Quy Nhơn để lên tàu Ba Lan tập kết ra Bắc theo hiệp định đình chiến Gèneve . Ngày đó, tôi cũng không biết ý nghĩa của từ tập kết. Đây là từ “ thuần Bắc” cũng như từ “ khẩn trương” ; “ quán triệt”; “ tinh thần là thế”…
Tôi còn nhớ mỗi lần các Cụ đến thăm đều có mang quà là những gói trà Bắc. Cá cụ là những người cùng thời sống với nhau nên biết rõ tính của nhau. Cha tôi là người thích uống trà. Ngày ở Quy Nhơn cha tôi chỉ uống một hiệu trà duy nhất là Hòa Hưng ở gần lầu Việt Cường.Nhiều lần như vậy nên tôi biết tình cảm giữa cha tôi và các cụ rất mặn nồng.
Sau giải phóng dù muốn hay không cũng phải thừa nhận có những người cách mạng chấp hành chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc của Đảng không tốt. Họ là những người nằm vùng chiến đấu ngay trong lòng địch, gia đình họ cũng đã chịu nhiều tang thương. Những ngày đầu tiên tiếp quản việc giải quyết chuyện riêng tư bằng “bạo lực” khá phổ biến. Có những việc trả thù riêng hơi “quá tay”mà tôi từng chứng kiến. Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc, chính các Cụ là những người đã ngăn cản những việc làm sai trái. Từ đó tôi mới bắt đầu để ý đến các Cụ. Một thanh niên mới lớn chưa định hình được về những chuyện chính trị, Xa quê hương mấy chục năm khát khao hòa bình, hơn ai hết các cụ hiểu rõ những điều cần làm ngay sau tiếng súng vừa chấm dứt. Những buổi học tập chính trị ở trường tiểu học gần chợ An Mỹ, tôi mới thấy tình cảm quê hương các cụ lớn thế nào. Anh Phan Đình Thích chủ tịch đầu tiên của xã Mỹ Cát lại có những cái nhìn rộng lượng. Tình cảm bà con cùng làng chung ngõ đã chiến thắng những hận thù mà cứ tưởng không thể nào vượt qua.
Tất cả những điều đó đã tác động sâu sắc đến tâm thức con người thời kỳ này cũng như ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ của một thế hệ thanh niên mới lớn như chúng tôi. Trong đôi mắt của các Cụ tập kết về lúc đó tôi nhận thấy một niềm tin khi hoàn thành khát vọng của cả dân tộc, bao ước mơ ấp ủ trong trái tim họ tình yêu, hạnh phúc sau chiến tranh. Khát vọng đó nay là niềm day dứt trăn trở về một cuộc sống mới ở quê hương chính mình là những người chủ chốt. Từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở về, các Cụ cũng phải đối diện với những suy tư chồng chất về hoàn cảnh gia đình. Nhiều đêm ngồi đun nước để pha trà cho cha tôi nói chuyện cùng các cụ, tôi biết rất rõ điều đó. Những thước đo giá trị của người cán bộ Cộng sàn , những chuẩn mực về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, vai trò làm chồng, làm cha đã day dứt khôn nguôi trong tâm hồn các Cụ. Giờ đây các Cụ phải thể hiện tính giá trị tuyệt đối về tình cảm của nó.
Khi đạn bom đã dừng, khi giai điệu hào hùng của bản anh hùng ca đã lắng lại, thay vào đó là những nốt trầm đầy màu sắc chiêm nghiệm, .
khi niềm phấn khích của sự đoàn tụ tạm lắng lại, các Cụ đứng ở vị trí con người đời thường để quan sát, chiêm nghiệm những vấn đề của cuộc sống hiện tại. Các Cụ nhìn lại cuộc đời đã qua với niềm kiêu hãnh, niềm kiêu hãnh của cả một thế hệ đã quên mình, đã cống hiến hết mình cho ngày hòa bình thống nhất đất nước.
Trước khi có việc đổi tiền Sài Gòn sang tiền chế độ mới ( tỉ giá 1đồng tiền Bắc ăn 500 đồng tiền Sài Gòn) cha tôi dẫn tôi về thăm quê. Chính trong thời điểm này tôi mới biết các Cụ là những người nặng lòng với quê hương, với xóm làng, với bà con nơi chôn nhau cắt rốn. Những cái bắt tay và ôm nhau giữa cha tôi và các cụ đã minh chứng cho tình cảm của những người con quê hương. Tời điểm này tôi mới biết chính xác là tại sao trong những năm tháng chiến tranh tàn khốc cha tôi lại ung dung đến những nơi mà không ai dám đi quá làng Hưng Thạnh để chài. Nhờ điều này mà chỉ có cái chài trên vai cha tôi đã đủ sức nuôi 10 anh em tôi khôn lớn. Có những cụ khi về Nam chiến đấu hoạt động quanh vùng Quy Nhơn, Tuy Phước đã âm thầm tạo điều kiện cho cha tôi dễ dàng làm ăn giữa hai chiến tuyến.
Ngày 31/3/1975 một người bạn cùng làm bốc vác với cha tôi ở cảng Quy Nhơn đã khuyên cha tôi không đi đâu cả, hãy ở lại Quy Nhơn và dẫn gia đình chạy về Làng Sông – Phước Thuận để tránh đạn. Đây chính là nơi đặt chỉ huy sở của Tỉnh ủy Bình Định chỉ đạo cuộc tiến công giải phóng Quy Nhơn. Người cơ sở cách mạng này tôi gọi là Chú Phúc quê ở Chánh Đạt – Cát Chánh, khi đó ở gần cánh đồng muối Bảy Búa (nay là khu vực 4 phường Đống Đa).
Sau ngày giải phóng cha tôi mới biết toàn bộ sự thật này.
Năm 1977.
Những năm tháng cực kỳ khó khăn.
Từ Quy Nhơn trở lại quê hương sau 10 năm lưu lạc, gia đình tôi gần như trắng tay. Ruộng muối không có, ruộng ngọt không, đìa cá cũng không. Cha tôi vẫn tiếp tục đi chài và tôi đi bạn cho các ghe dã cào. Một viễn cảnh không lấy gì là sáng sủa cho gia đình.
Lạch đồng 3 nơi dẫn nước vào ruộng muối.
Một buổi sáng, tôi đang chài dọc theo con lạch đồng 3. Cụ Phan Viện ( tức Mạo) thấy tôi, Cụ liền nói “ Chiều nay cha con mầy lên hốt hai đám ruộng muối của tao và làm luôn đi. Chừng nào tiến hành hợp tác xã thì tính!”. Tôi cứ tưởng Cụ nói cho vui, vì Cụ biết sát bên ruộng Cụ có một em tôi đang “ thik thik” nên chọc tôi vậy thôi. Đến chiều không thấy nhà tôi lên hốt muối và Cụ đã xuống nhà. Có nằm mơ gia đình tôi cũng không ngờ rằng một ngày nào đó mình lại có ruộng muối. Ruộng lại thuộc điện “ nhất điền” của vùng muối An Mỹ. Mãi đến năm 1979 khi quê hương tiến vào con đường làm ăn tập thể thì ruộng đó mới bàn giao cho hợp tác xã. Trong giai đoạn khó khăn trăm bề của cuộc sống, nhờ những miếng ruộng muối đó mà gia đình tôi mới vướt qua được chặng đường đầy cam go.
Đồng 3 "nhất điền" An Mỹ và vị trí ruộng muối của @quynhoner ngày xưa.
Ngày tôi lên đường đi xa, cũng một cụ tập kết về là chủ nhiệm hợp tác xã mua bán của xã đã tặng tôi một đôi dép nhựa trắng Tiền Phong. Khi đó loại dép này chỉ bán phân phối cho cán bộ với giá là 7 đồng. Đôi dép đó tôi đã mang theo trên suốt chặng đường chiến đấu khắp miền Nam Đông Dương suốt 7 năm trời. Thỉnh thoảng, tôi còn nhận được những lá thư động viên của các Cụ Lữ Phụng Nguyên, Hồ Kỳ, Nguyễn Cảnh Đăng, Hoàng Công Thí, Nguyễn Cảnh Bồng …
Các Cụ đã lần lượt về bên kia thế giới, nhưng những hình ảnh của những cán bộ tập kết vẫn còn mãi trong tâm trí tôi. Phải nói rằng suốt 21 năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền bắc hay lại trở về nam chiến đấu sinh tử. Các Cụ đã thể hiện những phẩm chất của những người Cộng Sản. Hình ảnh các cụ ngày ấy là những người biết lo cho dân, không màng đến chút gì quyền lợi riêng tư, sẵn sàng chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo hơn mình. Những đứa con của địa phương lên đường chiến đấu đều nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các Cụ.
Trên con đường đi lên của xã hội đã có những mặt trái làm mai một những lý tưởng cao đẹp một thời. Chuyện cán bộ vô cảm trước đời sống của dân không còn là chuyện hiếm. Chuyện thu vén cá nhân tràn lan khắp xã hội bất chấp luật pháp và tình cảm con người. Hình ảnh cao đẹp của người Cộng Sản như các Cụ một thời, khó mà tìm thấy đầu đó trong cuộc sống.
Một thế hệ đã mang những lý tưởng cao đẹp về một xã hội Cộng Sản về bên kia thế giới !
Nhớ quá món cá chua um Thị Nại.