CÁI NHỦI TRONG KÝ ỨC.
Tôi biết cái nhủi khi còn rất nhỏ. ( Chắc chắn là chưa biết mặc quần. Thời đó mấy ông lớn lớn cứ thấy tôi tồng ngồng là bắt một con còng dứ dứ vào chỗ đó để hù dọa để lần sau nhớ mặc quần). Ngày nào mẹ tôi đi ra đồng muối cũng vác theo cái nhủi. Sau khi làm muối xong thì xuống con lạch trước nhà để nhủi kiếm bữa ăn. Lát sau, khi đã đủ bữa ăn, mẹ tôi một tay cầm cái nhủi còn tay kia ẵm nách tôi về nhà. Không biết cái nhủi đó có từ khi nào nhưng mãi đến khi tôi lên bậc Trung học thì mẹ tôi mới cho lại một người ở quê.
Cái nhủi làm bằng tre. Đầu tiên là phải kiếm hai ngọn tre dài chừng 2,5m làm hai cái cán bắt chéo nhau hình chữ X. Phía dưới chữ X là một miếng mê cũng bằng tre (nhưng phải là tre cật ngâm). Khoảng cách giữa các miếng tre rất nhỏ để khỏi lọt cá tôm ra ngoài khi nhủi. Tùy theo loại nhủi mà khoảng cách các thanh tre khác nhau. Nhưng thưa nhất là nhủi để bắt cua trên đồng.
Nhủi này là loại thưa ( có lẽ dùng để nhủi bắt ốc hay sò nuôi ngoài biển)
Chuyện đi nhủi là của phụ nữ ( luật bất thành văn ?). Đàn ông cũng có nhưng chỉ rơ vào những trường hợp hy hữu. Ngày mẹ tôi sinh em gái tôi, cha tôi cũng nhủi kiếm bữa ăn mỗi khi tan đồng muối. Người ta chỉ nhủi ở những con lạch nhỏ bề ngang chừng chục thước. Phải chờ nước ròng thì mới nhủi.
Nhủi là vật dụng bắt được mọi thứ. Từ con tép, con bống mủn…đều bắt được. Hình ảnh người phụ nữ vác cái nhủi, phía sau đeo cái giỏ đi khắp nơi từ trên đồng đến dưới biển gợi lại rất nhiều kỷ niệm thưở ấu thơ. Khi nhủi xong, hai tay nhấc cái nhủi lên để kê trên đầu gối để làm điểm tựa. Tay bắt cá và đưa về phía sau bỏ vào giỏ. Nếu đứng ở xa nhìn không hình ảnh nào có thể diễn tả sự cần mẫn bằng hình ảnh này. Chậm rãi bắt từng con cá con tôm nhỏ xíu về nuôi con.
Nhiều khi thấy các bà, các chị đi nhủi những ngày mưa gió mà tội nghiệp. Xung quanh các bà, các chị là những con cò trắng phau đi ăn. Hai hình ảnh như là một.
Đi nhủi mà gặp trời mưa thì ướt toàn bộ lạnh toát người. Cũng như cò là loài sống ven sông chứ không phải là vật sống trên mặt nước. Cò cũng ớt như người.
Khi tôi lớn lên đi chài các sông lạch quanh khu Hưng Thạnh tôi mơi có một cái nhìn kỹ hơn về cái nghề đi nhủi. Thời đó, mấy bà, mấy cô đi nhủi đều ở quanh khu vực Tháp Đôi. Khi nước ròng, người ta rủ nhau đi nhủi rất đông. Đa số họ là dân nghèo, không có việc gì để làm. Ngày nào đi nhủi được nhiều thì đem bán ngoài chợ, ít thì ở nhà ăn đỡ phải mua. Bạn bè tôi có mấy đứa ở quanh xí nghiệp đắp lốp Kim Ngọc cũng đi nhủi. Nhờ lúc đó cá tôm còn nhiều, không ai bắt như bây giờ nên chuyện kiếm bữa gạo cho con cũng không phải là khó. Chính nhờ cái vật bằng tre thô sơ ấy, cùng với mồ hôi sự vất vả của người mẹ mà nhiều thế hệ đã lớn lên và trưởng thành. Thế hệ như tôi không ai có thể tránh khỏi chén cháo trắng gạo Thần nông 5 ăn với cá bống mủn kho mặn điểm tâm khi đến trường.
Sau hiệp định đình chiến 27/01/1973 vùng Hưng Thạnh ngưng tiếng súng. Những ngày nước ròng khô, từ cầu chữ I ra đến bờ Ông Cha (khu vực 4 Nhơn Bình hiện nay) người đi nhủi đông không đếm nổi. Chiến tranh đã đến hồi kết thúc. Các sở Mỹ, Đại Hàn rút về nước nên các bà, các chị bổ sung thêm vào đoàn quân đi nhủi cũng như làm các nghề khác.
Ngay trước nhà Restive Horse có dòng nước cạn chảy sát bờ kè. Chiều chiều cả mấy chục người nhủi ở đó. Muốn bắt được nhiều cá nhiều khi phải dàn hàng ngang. Cá mốm, cá ong, cá đấu hoảng quá không biết chạy đường nào nhiều khi nhảy cả lên bãi cát.
Giờ đây, có lẽ cái nghề đi nhủi không còn nữa. Cái nhủi sẽ dần chìm vào quên lãng. Cả một khu vực sông nước phía bắc sông Hà Thanh đã thành khu dân cư. Những con lạch, con sông cũng không còn nguyên vẹn dòng chảy. Hình ảnh cái nhủi báu vật của cha ông để lại cho hậu thế cũng ít ai biết. Cái nhủi một trong những biểu tượng của nền văn minh lúa nước cũng không còn được ai nhắc tới.
Đến một ngày nào đó, những vật dụng bằng tre không còn ai dùng nữa. Không còn ai biết vót một thanh nan cho nhuyễn để làm những vật dụng trong nhà. Những hàng tre xanh um dọc sông đã bị phá để làm bờ kè cho khang trang đẹp đẽ.
Một ngày nào đó, người ta cũng sẽ quên đi là cây tre có bà con họ hàng 4 đời với cây lúa nước. Quên cây tre, cây lúa, quên cái nhủi, cái thúng, cái nia coi như nền văn minh cổ xưa của dân tộc coi như bị mai một dần.
Chân thành cảm ơn những người đã cố gìn giữ những gì mà tiền nhân đã để lại. Nhìn đôi bầu để biết đó là dân Bình Định. Nhìn sợi dây dừa để biết xuất phát từ một xứ sở dừa đứng thành rừng.
Nhìn hình ảnh để nhớ về tuổi thơ.
Nhìn hình ảnh để biết mình là người Bình Định.