Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước

Postby vn_tuoitre on Sat Dec 15, 2007 8:40 pm

Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng



Lê Minh Nghĩa
Cố Trưởng ban Ban Biên giới của Chính phủ



LỜI TÒA SOẠN: Đây là báo cáo của tác giả Lê Minh Nghĩa tại Hội Thảo mùa Hè về “Phát triển khu vực châu Á Thái Bình Dương và tranh chấp Biển Đông” tổ chức tại New York City gần mười năm trước, vào ngày 15 và 16 tháng 7, 1998. Dủ có nhiều chi tiết (nhất là liên quan đến các nước ASEAN) cần được cập nhật, để tôn trọng tác giả (đã qua đời năm 2004), Thời Đại Mới xin đăng lại nguyên bản, không sửa đổi. Cũng xin lưu ý rằng khi trình bày báo cáo này, tác giả đã về hưu, không còn giữ một chức vụ nào trong Chính phủ Việt Nam.



Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc. Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một nước là hợp pháp. Nhưng ngay sau chiến tranh thế gìới thứ haì, Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua năm 1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một Quốc gia. Cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ và quyết liệt của các dân tộc thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ hai mà dân tộc ta là một đội ngũ tiên phong với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ đã dẫn tới nghị quyết cụ thể và đầy đủ hơn của Liên Hợp Quốc về vấn đề này.

Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về việc trao trả nền độc lập cho các nước và các đân tộc thuộc địa đã viết: "Mọi hành động vũ trang và mọi biện pháp đàn áp, bất kể thuộc loại nào, chống lạỉ các dân tộc phụ thuộc sẽ phải được chấm dứt để các dân tộc đó có thể thực hiện quyền của họ về độc lập hoàn toàn một cách hoà bình và tự do, và toàn vẹn lãnh thổ của họ sẽ được tôn trọng".

Nghị quyết 26/25 năm 1970 của Liên Hợp Quốc lại viết: "Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên gỉới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia".

"Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp".

Theo những tài liệu hiện có thì triều đình Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới - lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ đó.

Theo Tống sử, Tông Cảo sứ giả nhà Tống được phái sang nước ta năm 990 sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai năm 981 đã báo cáo rằng khi họ đến "hải giới Giao Chỉ" thì Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) đã phái 9 chiến thuyền và 300 quân lên đón và dẫn họ đến địa điểm quy định. Trong cuốn Lĩnh ngoại đại đáp (1178), Chu Khứ Phi một viên quan nhà Tống ở Quảng Đông, Quảng Tây đã viết rằng: dòng nước Thiên Phân Dao là định giới giữa 'bíển Giao Chỉ" và biển Quỳnh - Liêm (tức vùng biển Quỳnh Châu, Liêm Châu của Trung Quốc).

Như vậy là ngay từ thế kỷ thứ 10 và 12 , sứ thần Trung Quốc và quan lại Trung Quốc đã biết đâu là vùng biển Giao Chỉ (tức Việt Nam), đâu là vùng biển Trung Quốc.

Trong thế kỷ 11 đã diễn ra một số cuộc đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc để đòi lại những vùng đất mà Trung Quốc còn chiếm, sau khi phải rút quân trong cuộc chiến tranh xâm lược năm 1076-1077, cuộc chiến tranh đã xuất hiện 4 câu thơ của Lý Thường Kiệt mà hai câu đầu khẳng định chủ quyền lãnh thổ:

Nam Quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời).

Trong các cuộc đàm phán đó có cuộc đàm phán về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084 do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Trong thư gửi cho vua nhà Tống đòi đất, vua Lý Nhân Tông viết: "Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng vẫn khiến lòng tôi đau sót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng."

Ngoài việc dùng quân sự đánh úp, giải phóng Châu Quang Lang, ngay sau khi đại quân Tống rút lui, đấu tranh kiên trì của triều đình kết hợp với đấu tranh của nhân dân: bắn lén, bỏ thuốc độc cộng thêm khí hậu khắc nghiệt, khiến cho, theo Tống sử, đội quân đồn trú của nhà Tống mỗi năm tổn thất 70%-80% và năm 1079 mặc dầu đã đổi tên Châu Quảng Nguyên thành Thuận Châu vẫn đành coi là vùng "Đất độc" và trả lại cho ta và năm 1084 trả lại cho ta vùng Bảo Lạc, Túc Tang. Khi đi đàm phán biên giới, sứ thần ta đã tặng cho nhà Tống 5 thớt voi khiến cho, theo Đại việt sử ký toàn thư, người Tống có thơ rằng "Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim" nghĩa là vì tham voi của Giao Chỉ mà bỏ mất vàng của Quảng Nguyên (họ đã đánh giá sai nguyên nhân dẫn đến việc trả lại đất).

Trong Lịch triều Hiến chương Loại Chí viết năm 1821, Phan Huy Chú nhận xét là trong đàm phán về biên gìới đời Lý có hai mặt mạnh: một là có "oai thắng trận", hai là "sứ thần bàn bạc, lời lẽ thung dung, khôn khéo".

Nhà Trần đã bố trí các trọng thần phụ trách các hướng biên giới: Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ phụ trách hướng Lạng Sơn, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phụ trách hướng Hà Giang, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phụ trách hướng Đông Bắc (Người thay Nhân Huệ Vương là con Hưng Đạo Đại Vương, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng).

Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách núi đá ở Hoà Bình để nhắc con cháu:

"Biên phòng hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tư kế cửu an"

(Tạm dịch: việc biên phòng cần có phương lược phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài).

Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh "Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di".

Năm 1466 khi quân Minh cướp bóc vùng Thông Nông, Bảo Lạc thuộc tỉnh Cao Bằng, một mặt nhà vua phản kháng đòi nhà Minh phải bồi thường, mặt khác ra lệnh đầy 2 người chỉ huy ở Cao Bằng đi xa về tội phòng giữ biên giới không cẩn mật và ra sắc dụ cho các tỉnh biên giới: "Người bầy tôi giữ đất đai của triều đình, chức phận là phải bảo toàn cảnh thổ, yên uỷ nhân dân, bẻ gẫy những mũi nhọn tiến công, chống lại những kẻ khinh rẻ nước mình"

Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau: "Những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém"; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội; "Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ" (đồ là đầy đi làm khổ sai).

Chính nhờ cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ, thông minh, khôn khéo của các thế hệ Việt Nam nối tiếp, mặc dầu trong tình hình so sánh lực lượng rất chênh lệch, phong kiến phương Bắc luôn luôn có ý đồ thôn tính, lấn chiếm nhưng biên cương phía Bắc nước ta vẫn hình thành rõ rệt và ổn định về cơ bản từ ngàn năm nay.

Tạp chí Géographer của Vụ tình báo và nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29/10/1964 thừa nhận: "Sau hơn 10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và thành lập vương quốc Đại Cồ Việt ... Nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình ... Một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia" cách đây 10 thế kỷ.

Trong bài "Tổng Tụ long và đường biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ" năm 1924, Bonifacy, tư lệnh đạo quan binh Hà Giang đầu thế kỷ 20 viết: "Đường biên giới lịch sừ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được xác định một cách hoàn hảo (parfaitement défini). Khi cần người Việt Nam biết bảo vệ các quyền của họ, mặc dầu người Trung Quốc cho rằng không thể có đường biên giới giữa Việt Nam và Thiên Triều".

Điều mà con cháu ngày nay vô cùng cảm kích, khâm phục, biết ơn là ông cha ta chẳng những chăm lo bảo vệ vững chắc biên cương đất liền mà còn rất quan tâm xác lập và bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên vùng biển.

Tiếp theo hành động buộc sứ thần Trung Quốc phải thừa nhận "hải giới" Việt Nam cuối thế kỷ thứ 10, nhà Lý đã thành lập trang Vân Đồn để quản lý vùng biển Đông Bắc; nhà Trần nâng trang Vân Đồn thành trấn Vân Đồn trực thuộc triều đình; Nhà Lê đặt tuần kiểm ở các cửa biển để quản lý biển, thu thuế các tầu thuyền nước ngoài. Do vậy chủ quyền Việt Nam trên các đảo vùng biển Đông Bắc được xác lập sớm. Đến thế kỷ 19, khi Pháp yà nhà Thanh đàm phán về vùng biển trong Vịnh Bắc bộ thì không có tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo ở vùng này, nhà Thanh phải thừa nhận tất cả các đảo ở phía Tây đường kình tuyến Paris 105o43' Đ là thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Năm 1171, 1172, vua Lý Anh Tông đích thân đi "tuần tra các hải đảo ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam, Bắc, tìm hiểu đường đí, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật".

Ở phía Nam, các chúa Nguyễn sau khi xác lập chủ quyền Việt Nam đối với các đảo dọc bờ biển miền Trung và miền Nam: Cồn Cỏ, Ly Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, đầu thế kỷ 18 đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên các đảo trong Vịnh Thái Lan. Khi đặt ách thống trị trên Nam Kỳ và Campuchia, các quan chức Pháp đã tiến hành khảo sát vùng biển giữa hai nước Việt Nam, Campuchia và đứng trước tình hình tất cả các đảo trên vùng biển này về mặt hành chính đều thuộc tỉnh Hà Tiên của Việt Nam. Ngày 25/3/1873 chuẩn đô đốc thống đốc Nam Kỳ Krantz đã thừa nhận thực tế đó trong nghị định quy định đảo Phú Quốc và tất cả các đảo trên vùng biển giữa Nam Kỳ và Campuchia được tách khỏi tỉnh Hà Tiên, lập thành một quận trực thuộc thống đốc Nam Kỳ.

Đối với các đảo xa bờ, theo chính sử Việt Nam và theo nhiều nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với. danh nghĩa Nhà nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra khai thác và quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh Mạng liên tiếp phái thuỷ quân ra Hoàng Sa - Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia. Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong 3 năm: 1833, 1835, 1836 vua Minh Mạng liên tiếp có chi thị về Hoàng Sa.

Không chỉ chăm lo khai thác hai quần đảo, nhà vua Việt Nam còn lo bảo đảm an toàn cho tàu thuyền Việt Nam và các nước qua lại vùng biển xung quanh hai quần đảo, năm 1833 vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công rằng: "Trong hải phận Quảng Nghĩa, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một mầu; không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm phái người tới đó trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nạn mắc cạn".[1]

Trong một tài liệu viết năm 1768, đô đốc Pháp D'Estaing, người nhận nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch tiến công vào Việt Nam đã viết rằng: "Việc đi lại giữa quần đảo đá Paracel (tức Hoàng Sa) và đất liền còn khó khăn hơn việc đi lại ngoài biển khơi. Thế mà các thuyền nhỏ của xứ này thường qua lại vùng quần đảo". D'Estaing đánh giá các thủy thủ Việt Nam là "những người quen sông nước và là các thuỷ thủ giỏí". Trong một tài liệu khác viết vào cuối năm 1758 đầu năm 1759, D'Estaing còn nói ở Huế có tới 400 khẩu pháo hầu hết là của Bồ Đào Nha thu lượm từ các xác tầu đắm ở Paracel[2].

Trong cuốn "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" xuất ở Paris năm 1996, giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật gia Châu Âu đã vìết; "Khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và trong khoảng gần hai thế kỷ, một quyền (un droit) đối với các quần đảo (Hoàng Sa, Trường Sa), theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó".[3]

Từ 1884, Chính quyền Pháp ở Đông Dương đã tiếp tục thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: tiến hành khảo sát khoa học, dựng bia chủ quyền, dựng đèn biển, lập trạm khí tượng, đài vô tuyến điện, đưa quân ra đồn trú, thành lập đơn vị hành chính trên quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa thiên và sát nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

Sau thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, nước Việt Nam giành lại được độc lập thống nhất hoàn toàn, vấn đề bảo vệ biên giới, bảo vệ lãnh thổ toàn vẹn của tổ quốc mới lại hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam.

Năm 1954, Bác Hồ nói ở đền Vua Hùng "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" và năm 1961, mặc dầu mới có một nửa nước được giái phóng, Bác Hồ đã nóì: "Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó". Bác Hồ đã chỉ thị cho chúng ta phải nhận thức rõ tình hình mới, phải chăm lo bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Sau này, tưân theo chỉ thị của Bác Hồ, hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã khẳng định lãnh thổ Việt Nam "bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời" và 'Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm".

Trong bối cảnh địa lý và chính trị của nước ta sau năm 1975 , trước sự phát trtển của luật pháp quốc tế về biển, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải giải quyết một loạt vấn đề biên giới - lãnh thổ với các nước láng giềng:

1. Giữa Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đường biên giới có giá trị pháp lý quốc tế do các nhà nước có thẩm quyền ký kết, tạo ra cơ sở vững chắc để xây dựng một đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa ba dân tộc.

2. Việt Nam cần xác định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa với Indonesia, Thái Lan, Malaysia; vì theo các quy định mới của luật biển quốc tế thì vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của nước ta và các nước đó chồng lên nhau.

3. Việt Nam cần giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ trên biển với Philippin, Malaysia vì hai nước này có yêu sách về chủ quyền đối với một phần hoặc đại bộ phận quần đảo Trường Sa.

4. Với Trung Quốc, Việt Nam phải giải quyết các vấn đề sau:

- Đường biên giới trên đất liền;

- Đường biên giới trong Vịnh Bắc bộ;

- Các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và thềm lục địa trên Biển Đông: từ năm 1909 Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 bắt đầu có hành động tranh chấp quần đảo Trường Sa (sẽ trình bày cụ thể ở dưới).

- Vấn đề ranh giới vùng thông báo bay (FIR) ngoài khơi Trung bộ - Việt Nam, Trung Quốc đưa ra đề nghị lập FIR Sanya lấn vào phần phía Bắc FIR Hồ Chí Minh mà Hàng không dân dụng quốc tế giao cho Hong Kong tạm thời quản lý năm 1975 chủ yếu là họ muốn quản lý toàn bộ vùng trời trên quần đảo Hoàng Sa và lấn vào phần phía Đông FIR Hà Nội trên Vịnh Bắc Bộ.

Với chủ trương nhất quán là giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng bằng thương lượng hoà bình, Việt Nam đã và đang giải quyết các vấn đề được đặt ra như sau:

1. Với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào

Tháng 2/1976, lãnh đạo hai nước đã cho ý kiến về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào là đường bỉên giới trên bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 tỷ lệ 1/100 000 (năm 1945 là thời điểm hai nước tuyên bố độc lập).

Như vậy là lãnh đạo Việt Nam và Lào đã cho nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới hai nước theo nguyên tắc Uti-possidétis (anh hãy làm chủ cái anh đang có), một nguyên tắc đã được áp dụng ở Châu Mỹ la tinh trong thời kỳ phi thực dân hoá và đã được Tổ chức thống nhất Châu Phi chấp nhận với nội dung "tôn trọng các đường biên giới tồn tại vào lúc mà các nước Châu Phi giành được độc lập".

Dựa trên nguyên tắc Uti possidétis, qua 4 đợt đàm phán trong Uỷ ban liên hợp Việt - Lào về hoạch định biên giới, ngày 18/7/1977 hai nước ký Hiệp ước Hoạch định biên giới. Việc phân giới cắm mốc đường biên giới dài 2067 km bắt đầu tiến hành ngày 25/7/1978 và đến 24/8/1984 thì kết thúc.

Ngày 24/1/1986 hai nước ký Hiệp ước bổ sung ghi nhận những điểm điều chỉnh đường biên giới đã hoạch định năm 1977, ký nghị định thư ghi nhận kết quả phân gìới cắm mốc. Ngày 1/3/1990 hai nước ký Hiệp định quy chế biên giới. Thi hành Hiệp định này, hàng năm có cuộc họp giữa Đoàn đại biểu biên giới hai nước với sự có mặt của đại diện các Bộ, ngành liên quan và các tỉnh biên giới của hai nước để kiểm điểm việc thi hành Hiệp định quy chế biên giới.

2. Với Campuchia

Trước năm 1964, quan điểm cơ bản của phía Campuchia về biên giới lãnh thổ giữa hai nước là đòi Việt Nam trả lại cho Campuchia 6 tỉnh Nam Kỳ và đảo Phú Quốc.

Từ năm 1964 - 1967, Chính phủ Vương quốc Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu chính thức đề nghị Việt Nam công nhận Campuchia trong đường biên giới hỉện tại, cụ thể là đường biên giới trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 với 9 điểm sửa đổi, tổng diện tích khoảng 100 km2. Trên biển, phía Campuchia đề nghị các đảo phía Bắc đường do Toàn quyền Brévié vạch năm 1939 là thuộc Campuchia, cộng thêm quần đảo Thổ Chu và nhóm phía Nam quần đảo Hải Tặc.

Trong năm 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã chính thức công nhận và cam kết tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia trong đường biên giôi hiện tại (công hàm của Việt Nam không nói tới vấn đề chủ quyền đối với các đảo trên biển và 9 điểm mà Campuchia đề nghị sửa đổi về đường biên giới trên bộ).

Ngày 27/12/1985 Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trên cơ sở thoả thuận năm 1967. Thi hành Hiệp ước, hai bên đã tiến hành phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới từ tháng 4/1986 đến tháng 12/1988 được 207 km/1137 km, tháng 1/1989 theo đề nghị của phía Campuchia, hai bên tạm dừng việc phân giới cắm mốc.

Trên biển, ngày 7/7/1982 hai Chính phủ ký Hiệp định thiết lập vùng nước lịch sử chung giữa hai nước và thỏa thuận: sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới trên biển, lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra năm 1939 với tính chất là đường hành chính và cảnh sát làm đường phân chia đảo giữa hai nước.

Với Chính phủ Campuchia thành lập sau khi ký Hiệp ước hoà bình về Campuchia năm 1993 , năm 1994, 1995 Thủ tướng Chính phủ hai nước đã thoả thuận thành lập một nhóm làm việc cấp chuyên viên để thảo luận và giải quyết vấn đề phân giới giữa hai nước và thảo luận những biện pháp cần thiết để duy trì an ninh và ổn định trong khu vực biên giới nhằm xây dựng một đường biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Hai bên thoả thuận trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay.

Thực hiện thoả thuận giữa Thủ tướng Chính phủ hai nước nhân dịp Thủ tướng Ung Huốt sang thăm Việt Nam đầu tháng 6/1998, nhóm chuyên viên liên hơp về biên giới Việt Nam - CPC đã họp tại Phnom Pênh từ ngày 16 - 20/6/1998. Trong cuộc họp này hai bên đã trao đổl về việc tiếp tục thực hiện các Hiệp ước, Hiệp định về biên giới giữa hai nước đã ký trong những năm 1982, 1983, 1985. Hai bên đã dành nhiều thời gian thảo luận một số vấn đề về quan điểm của hai bên liên quan đến biên giới biển và biên giớl trên bộ với mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai nước trở thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài.

Hai bên đã thống nhất kìến nghị lên Chính phủ hai nước tiến hành thành lập Uỷ ban liên hơp với những nhiệm vụ:

- Soạn thảo Hiệp ước về hoạch định biên giới biển và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trình lên chính phủ hai nước.

- Chỉ đạo việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới.

- Giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới giữa hai nước.

Qua trao đổi về đường biên giới biển, phía Campuchia kiên trì quan điểm muốn lấy đường do Toàn quyền Brévié vạch ra tháng 1/1939 làm đường biên giới biển của hai nước.

Ta đã nói rõ là ta không chấp nhận đường Brévié làm đường biên giới biển giữa hai nước vì:

1. Đường Brévié không phải là một văn bản pháp quy, chỉ là một bức thư (lettre) gửi cho Thống đốc Nam Kỳ đồng gửi cho Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Văn bản đó chỉ có mục đích giải quyết vấn đề phân định quyền hành chính và cảnh sát đối với các đảo, không giải quyết vấn đề quy thuộc lãnh thổ;

2. Cả hai bên không có bản đồ đính kèm theo văn bản Brévié vì vậy hiện nay ít nhất lưu hành 4 cách thể hiện đường Brévté khác nhau: Đường của Pôn Pốt, đường của Chính quyền miền Nam Việt Nam, đường của ông Sarin Chhak trong luận án tiến sỹ bảo vệ ở Paris sau đó được xuất bản với lời tựa của Quốc trưởng Norodom Sihanouk, đường của các học giả Hoa Kỳ.

3 . Nếu chuyển đường Brévié thành đường biên giới biển thì không phù hợp với luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế, quá bất lợi cho Việt Nam và nên lưu ý là vào năm 1939 theo luật pháp quốc tế lãnh hải chỉ là 3 hải lý, chưa có quy định về vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa thì đường Brévié làm sao có thể giải quyết vấn đề phân định lãnh hải theo quan điểm hiện nay và phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

Phía Việt Nam đã đề nghị hai bên thoả thuận: áp dụng luật biển quốc tế, tham khảo thực tiển quốc tế, tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trên vùng biển hai nước để đi đến một giải pháp công bằng trong việc phân định vùng nước lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của hai nước.

3. Với Indonesia

Việt Nam và Indonesia cách nhau 250 hải lý vùng biển tính từ Côn Đảo và Natuna Bắc là hai đảo xa nhất của hai nước đối diện nhau do đó trước kia không có vấn đề biên giới giữa hai nước (nếu tính từ bờ biển Việt Nam và bờ biển Bornéo thì cách nhau trên 400 hải lý). Đến nay do sự phát tnển của luật pháp quốc tế về biển, hai bên phải phân định ranh giới vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.

Năm 1972, Indonesia và chính quyền Sài Gòn đàm phán 1 vòng, quan điểm của Indonesia là phân định theo trung tuyến giữa các đảo xa nhất của hai bên, quan điểm của Sài gòn là trung tuyến Giữa bờ biển Việt Nam và Bornéo, hai quan điểm tạo nên vùng chồng lấn rộng khoảng 37.000 km2. (Đảo Natuna Bắc là đảo xa nhất của Indonesia đối diện với miền Nam Việt Nam cách Bornéo 320 km; Côn Đảo, đảo đối diện với Natuna bắc chỉ cách đất liền 90 km).

Từ năm 1978 CHXHCN Việt Nam và Indonesia bắt đầu đàm phán. Indonesia giữ quan điểm cũ, quan điểm của ta dựa vào định nghĩa thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lục địa, do đó ranh giới nên theo đường rãnh ngầm ngăn cách sự kéo dài tự nhiên của hai thềm lục địa, hai quan điểm tạo ra vùng tranh chấp lúc đầu rộng khoảng 92.000 km2.

Qua 10 vòng đàm phán hai bên đã dần dần thu hẹp được vùng tranh chấp xuống còn khoảng 4.500 km2 nhưng đầu năm 1993 Indonesia đề nghị huỷ bỏ toàn bộ kết quả đàm phán từ 1978 dến 1992 và đàm phán lại từ đầu.

Cho đến nay, qua 5 vòng trao đổi không chính thức, hai bên chưa đi đến thoả thuận nối lại đàm phán.

4. Với Malaysia

Giữa Việt Nam và Malaysia có một vùng chống lấn vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng 2.800km2. Vùng này hình thành bởi đường ranh giới thềrn lục địa do chính quyền Sài Gòn công bố năm 1971 và đường ranh giới thềm lục địa do Malaysia công bố năm 1979. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do Sài Gòn có tính đến đảo Hòn Khoai cách đất liền 6,5 hải lý còn Malaysia đã bỏ qua đảo Hòn Khoai.

Tháng 5/1992 Việt Nam và Malaysia đã ký thoả thuận hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn, giao cho các công ty dầu lửa của hai bên ký các dàn xếp thương mại và tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác rồi phân chia sản phẩm; việc phân định vùng chồng lấn sẽ giải quyết sau. Việc hơp tác giữa hai ngành aầu khí đang tiến triển bình thường.

Ngoài ra vùng khai thác chung giữa Thái Lan và Malaysia rộng 7.250 km2 có 800 km2 liên quan đến Việt Nam. Ba nước đã thoả thuận sẽ cùng nhau giải quyết khu vực này và cuộc họp đầu tiên đã diễn ra tháng 2/1998 vòng hai sẽ họp vào nửa cuối năm 1998 để bàn về khả năng khai thác chung vùng chồng lấn.

Giữa Việt Nam và Malaysia còn có tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa do Malaysia có yêu sách đối với vùng phía Nam quần đảo Trường Sa và trên thực tế trong 2 năm 1993-1994 Malaysia đã cho quân chiếm ba bãi đá ngầm ở Nam quần đảo Trường Sa: Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa.

Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Malaysia nhiều lần khẳng định sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.

5. Với Thái Lan

Giữa Việt Nam và Thái Lan có hai vấn đề trên biển phải giải quyết:

a) Phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

b) Giải quyết vấn đề tầu thuyền đánh cá Thái Lan thường xuyên vi phạm vùng biển Việt Nam và có trường hợp Thái Lan đã dùng hải quân, không quân bảo vệ các hoạt động này.

Về vấn đề thứ nhất giữa hai nước có một vùng chồng lấn rộng khoảng 6000 km2 do Việt Nam có tính đến hiệu lực của đảo Thổ Chu còn Thái Lan thì phủ nhận hiệu lực của đảo Thổ Chu.

Từ năm 1992 hai bên đàm phán qua 9 vòng cấp chuyên viên.

Ngày 9/8/1997 hai nước ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước. Theo hiêp định, Việt Nam được 32,5% diện tích vùng chồng lấn.

Về vấn đề thứ hai: Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển đã họp hai vòng. Hai bên đã thoả thuận phối hơp trong việc giáo dục ngư dân, đi tới tổ chức tưần tra chung, thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm, hơp tác tổ chức điều tra nguồn lợi biển giữa hai nước.

Việc giải quyết dứt điểm vấn đề này cũng còn đòi hỏi một thời gian.

6. Với Philippin

Philippin vốn là nước không có quyền gì đối với quần đảo Trường Sa vì Hiệp định Paris năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha theo đó Tây Ban Nha giao Philippin cho Mỹ đã xác định phạm vi quần đảo Philippin trên bản đồ kèm theo Hiệp định, theo bản đồ đó nước Philippin không bao gồm 1 đảo nào của quần đảo Trường Sa.

Từ năm 1951, Philippin bắt đầu chuẩn bị dư luận để nhẩy vào tranh chấp quần đảo Trường Sa với lời tuyên bố của Tổng thống Philippin Quirino rằng quần đảo Spratly (tức Trường Sa) phải thuộc về Philippin vì nó ở gần Philippin.

Từ năm 1971-1973, Philippin cho quân đội ra chiếm đóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa và năm 1977-1978 chiếm thêm hai đảo nữa. Cả 7 đảo nằm ở phía Bắc quần đảo. Họ ra sức cửng cố vị trí trên quần đảo: Chở đất ra đảo để trồng dừa, cạp thêm đất ra biển để làm đường băng cho máy bay chiến đấu mở đường hàng không thường kỳ, tổ chức đánh cá, xây dựng kho ướp lạnh, tổ chức thăm dò, khai thác dầu khí ở Đông Bắc quần đảo (có tin nói là sản lượng dầu khai thác ở đây đảm bảo 10% nhu cầu dầu của Philippin).

Đầu năm 1979, Philippin công bố sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1978 coi toàn bộ quần đảo Trường Sa (trừ đảo Trường Sa) là lãnh thổ Philippin và đặt tên cho quần đảo là Kalayaan.

Năm 1980 Philippin mở rộng lấn chiếm xuống phía Nam quần đảo, chiếm đóng đảo Công Đo cách đảo gần nhất mà họ chiếm đóng cũ gần 150 hải lý.

Từ năm 1978 đến 1994 Việt Nam và Philippin đã thoả thuận ở cấp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Thủ tướng Chính phủ, Tổng thống và Chủ tịch nước là sẽ giải quyết mọi tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình trên tinh thần hữu nghị, hoà giải, tin cậy lẫn nhau.

Ngày 7/11/1995 hai Bộ Ngoại giao Việt Nam - Philippin đã đạt được thoả thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng tranh chấp trong đó có các điểm chính là

- Hai bên đồng ý thông qua thương lượng, hoà bình tìm kiếm giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.

- Kiềm chế không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm hoạ, tìm kiếm cứu nạn, chống cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên biển ở quần đảo Trường Sa.

- Bảo đảm tự do hàng hải theo quy định của luật quốc tế.

- Từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5/1996, hai bên đã thực hiện thành công chuyến khảo sát chung về khoa học biển tại khu vực quần đảo Trường Sa và Biển Đông. Hai bên sẽ tiếp tục tổ chức khảo sát khoa học chung trên khu vực quần đảo và trên Biển Đông. Uỷ ban hỗn hơp Việt Nam - Philippin do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước dẫn đầu họp tại Hà Nội tháng 1/1997 đã thoả thuận về một số biện pháp xây dựng lòng tin trên quần đảo, trong đó có việc trao đổi các cuộc viếng thăm của các chỉ huy quân sự và lực lượng đồn trú của hai bên trên quần đảo.

7. Với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

Năm 1957-1958, có sự trao đổi giữa Trung ương Đảng hai nước về biên giới. Ngày 2/11/1957 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị: "Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định; nhất thiết cấm các nhà chức trách và các đoàn thể địa phương không được thương lượng với nhau để cắm lại mốc giới hoặc cắt nhượng đất cho nhaư" . Hàm ý của bức thư là hai bên cần căn cứ vào các Công ước về hoạch định biên giới mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước.

Tháng 4/1958 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trả lời đồng ý với ý kiến của Trung ương Đảng Việt Nam về công tác biên giớl Việt - Trung.

Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới giữa hai nước là về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ 15/8/1974 - 22/11/1974 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc đàm phán mới chỉ có tính cách tìm hiểu quan điểm của nhau và không đi tới thoả thuận nào.

Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới là về đường biên giới trên bộ và về Vịnh Bắc bộ diễn ra từ tháng 10/1977 đến tháng 6/1978 tại Bắc Kinh, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán này cũng không đi tới thoả thuận nào.

Từ tháng 2 năm 1979 đến 1986 diễn ra chiến tranh và xung đột quân sự trên vùng biên giới đặc biệt là trên biên giới các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, ác liệt và kéo dài nhất là ở biên giới tỉnh Hà Giang.

Từ năm 1991 hai nước khôi phục quan hệ bình thường. Qua hai vòng đàm phán về biên giới cấp chuyên viên và một vòng đàm phán cấp Chính phủ trong hai năm 1992, 1993, ngày 19/10/1993 hai nước ký "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa".

Thực hiện thoả thuận trên, hai bên đã tổ chức 3 diễn đàn đàm phán cấp chuyên viên: về biên giới trên bộ; về biên giới trong Vịnh Bắc bộ; về các vấn đề trên Biển Đông và một diễn đàn đàm phán cấp Chính phủ để xem xét các vấn đề do các nhóm chuyên viên trình lên.

7.1. Về biên giới trên bộ

Thực hiện thoả thuận ngày 19/10/1993 là căn cứ vào các Công ước 1887 và 1895 mà Pháp và Trung Quốc đã ký cuối thế kỷ trước để "xác định lại toàn đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc", hai bên đã họp 12 vòng nhóm công tác về biên giới trên bộ trước năm 2000.[4]

7.2. Về đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ

Hai bên đã họp 10 vòng nhóm công tác về Vịnh Bắc bộ và 6 vòng tổ chuyên gia về Vịnh Bắc Bộ để thực hiện thoả thuận về nguyên tắc phân định Vịnh Bắc bộ là "áp dụng luật biển quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, để tiến hành đàm phán phân định Vịnh Bắc bộ", "theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh Bắc bộ để đi đến một giải pháp công bằng".

Cuộc đàm phán có tiến triển và hai bên đang cùng cố gắng để có thể ký Hiệp ước về phân định Vịnh Bắc bộ cũng trước năm 2000. Vấn đề lớn nhất mà hai bên phải giải quyết là vấn đề hiệu lực các đảo ven bờ của Việt Nam và đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng 130 km.

7.3. Về các vấn đề trên Biển Đông

Trên Biển Đông, vấn đề tranh chấp phức tạp và quan trọng nhất là về hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bởi vì hai quần đảo giữ một vị trí chiến lược trọng yếu trên Biển Đông. Nếu như nước ngoài chiếm cả hai quần đảo thì nước Việt Nam không còn thế đứng trên Biển Đông và bị bao vây trên hướng biển.

Quần đảo Hoàng Sa bao gồm trên 30 đảo, bãi, đá ngầm trên một vùng biển rộng khoảng 15.000 - 16.000 km2 cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo, bãi, đá ngầm trên vùng biển rộng khoảng 160.000 - 180.000 km2, đảo gần nhất của quần đảo cách Vũng Tầu khoảng 250 hảì lý. (Trung Quốc quan niệm quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều quan niệm của ta là điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 6o50' Bắc trong khi Trung Quốc coi điểm cực Nam của quần đảo Trường Sa là 4o Bắc giáp Bornéo).

Theo những tài liệu chính thức, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ hai quần đảo từ thế kỷ thứ 17, tiếp đó Chính quyền Đông Dương đã củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo: thành lập bộ máy hành chính thuộc hai tỉnh Thừa Thiên và Bà Rịa, cho cảnh sát ra đồn trú, lập đài khí tượng, trạm vô tuyến điện, xây đèn biển.

Cho đến đầu thế kỷ 20 không có nước nào tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo đối với Việt Nam.

Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam.

Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18o13' Bắc".

Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông. Tháng 5 năm 1909 Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái đô đốc Lý Chuẩn đem 3 pháo thuyền ra thăm chớp nhoáng một vài đảo trên quần đảo Hoàng Sa rồi về . Năm 1921 Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam.

Từ đó bắt đầu có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và từ những năm 1930 trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935 lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ có cả 4 quần đảo trên Biển Đông là của Trung Quốc (công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi Bộ Ngoại giao Pháp năm 1932 còn viết rằng: "Các đảo Tây Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc xa nhất về phía Nam").

Nếu không có chiến tranh thế giới thứ hai thì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là liên tực và thật sự từ thế kỷ 17.

Nhưng năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Tháng 11/1943, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ, Anh, Trung (Tổng thống Roosevelt, Thủ tướng Churchill, Tổng thống Tưởng Giới Thạch) họp tại Cairo có bàn về các lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc. Tuyên bố của Hội nghị viết: "Các vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ". Như vậy rõ ràng là cả 3 người đứng đầu 3 cường quốc trong đó có Tổng thống Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ của Trung Quốc.

Tháng 7, tháng 8 năm 1945 Tuyên ngôn của Hội nghị Potsdam với sự tham gia của 4 nước Mỹ, Anh, Trung, Liên Xô lại viết: "Các điều khoản của bản tuyên bố Cairo sẽ được thi hành". Như vậy cả 4 cường quốc trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1947, cuốn Nam Hải chư đảo địa lý Chí lược do Bộ Nội Chính Trung Hoa Dân Quốc xuất bản có bản đồ "Nam hải chư đảo vị trí lược đồ" thể hiện một đường 11 đoạn coi 80% Biển Đông và cả 4 quần đảo trên Biển Đông là thuộc Trung Quốc.

Năm 1950 trên bản đồ Trung hoa Nhân dân Cộng hoà Quốc phân tỉnh tinh đồ có một phụ đồ thể hiện quốc giới của Trung Quốc gồm 11 đoạn coi cả 4 quần đảo và 80% Biển Đông là lãnh thổ Trung Quốc. Điểm cực nam của Trung Quốc là 4o Bắc giáp Bornéo..

Ngày 15/8/1951, Chu Ân Lai Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố: "Các quần đảo Tây Sa và Nam Sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc."

Năm 1951 tại Hội nghị San Francisco với sự tham gia của 51 nước, đại biểu Liên Xô đã đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, đề nghị này đã bị Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và văn kiện của Hội nghị ký ngày 8/9/1951 chỉ ghi về hai quần đảo là "Nhật bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với 2 quần đảo". Tại Hội nghị này, ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã trịnh trọng tuyên bố "Khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam đối với các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa". Đối với Tuyên bố đó không một nước nào phản đối hoặc bảo lưu. Như vậy là Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận hai quần đảo không phải là lãnh thổ Trung Quốc.

Trong Hoà ước giữa Trung Quốc và Nhật Bản ngày 28/4/1952, Trung Quốc ghi nhận việc Nhật Bản từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo như nội dung đã được ghi trong văn kiện Hội nghị San Francisco mà không hề yêu cầu Nhật Bản trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo.

Tuy vậy, trên thực tế, lợi dụng tình hình Pháp rút khỏi Đông Dương, Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956 Trung Quốc cho quân đội ra chiếm nhóm phía đông quần đảo Hoàng Sa, Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.

Tháng Giêng năm 1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc dùng một lực lượng hải quân, không quân quan trọng đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa khi đó do quân đội của Chính quyền Sài Gòn bảo vệ. Chính quyền Sài Gòn đã liên lạc với Mỹ yêu cầu giúp đỡ. Theo báo cáo của Trần Kim Phượng, Đại sứ Sài gòn tại Mỹ ngày 2/2/1974 thì "Ngoại trưởng Kissinger chỉ coi cuộc tranh chấp đảo Hoàng Sa như là một vấn đề ngoài lề thậm chí là điều bất lợi trong khung cảnh của sự phối hợp với Trung Cộng để hạn chế Băc Việt Nam" và phía Mỹ "không muốn nhúng tay vào".

Thái độ của Mỹ khiến cho ông Nguyễn Văn Thiệu phải bộc lộ lo ngại với các cận thần về khả năng Trung Cộng sẽ đánh Trường Sa và chiếm Par Force giống như Paracel (có Complicité hoặc bằng Laisser-faire của Mỹ), những chữ Pháp nói trên là theo bút tích của ông Thiệu.

Năm 1988 Trung Quốc lại huy động lực lượng không quân, hải quân tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, từ đó ra sức củng cố các điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới.

Ở Trung Quốc đã có những dư luận về những bước tiến tiếp bằng vũ lực trên quần đảo khiến cho năm 1997 hai tác giả người Mỹ Humphrey Hawksley và Simon Holberton đã viết cuốn Dragon Strike coi là "một lời cảnh báo" về "một sự kiện lịch sử sắp diễn ra trong vài năm sắp tới". "Tuy chỉ là một kịch bản suy tưởng nhưng dựa trên hàng trăm sự kiện có thật xảy ra những năm qua và trong những ngày gần đây. Vì vậy nó cung cấp cho các nhà chiến lược của nhiều quốc gia một tầm nhìn và nhiều điều đáng suy nghĩ".

Và ở Trung Quốc năm 1993 hai tác giả Hiểu Bình và Thanh Ba đã biên soạn và xuất bản cuốn "Quân đội Trung Quốc liệu có đánh thắng trong cuộc chiến tranh tới không?".

Cuốn sách viết: "Nếu nhà cầm quyền Việt Nam không có nhượng bộ gì trong vấn đề Nam Sa thì Trung Quốc và Việt Nam nhất định sẽ có đánh nhaư"; "Thập kỷ 90 là thời kỳ then chốt để giải quyết vấn đề Nam Sa. Thời kỳ này qua đi, có thể Trung Quốc sẽ mất một dịp may lịch sử".

Cuốn sách còn cho biết rằng năm 1992, một hội nghị quân sự của Trung Quốc họp ở miền Nam Tnmg Quốc đã định ra những nguyên tắc tác chiến, kết hợp thủ đoạn đánh và doạ, "nhanh chóng ... đánh đuổi quân chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Nam Sa (tức Trường Sa)".

Tình hình tranh chấp phức tạp trên Biển Đông khiến cho dư luận quốc tế lo ngại, ngày 22/7/1992, các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố của Hiệp hội ASEAN về vấn đề Biển Nam Trung Hoa, bản tuyên bố viết: "Cho rằng các vấn đề Biển Nam Trung Hoa chứa đựng những vấn đề nhậy cảm thuộc về chủ quyền và quyên tài phán của các bên ưực tiếp liên quan.

Lo ngạì rằng bất kỳ diễn biến có tính chất thù địch nào trong Biển Nam Trung Hoa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoà bình và sự ổn định trong khu vực.

Dưới đây :

1. Nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết bằng phương thức hoà bình, không dùng vũ ìực, đối với tất cả các vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán trong Biển Nam Trung Hoa.

2. Khẩn thiết yêu cầu các bên liên quan tự kiềm chế, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giải quyết tận gốc tất cả các cuộc tranh chấp."

Trong tưyên bố ngày 10/5/1995, Mỹ cũng tỏ ra lo ngại về tình hình khu vực và "cực lực phản đối việc sử dụng vũ lực hay đe doạ để giải quyết những yêu sách đối nghịch".

Về phía Việt Nam, chúng ta kiên trì thực hiện nguyên tắc đã thoả thuận ngày 19/10/1993 là "tiếp tực đàm phán về các vấn đề trên biển (Biển Đông) để đi đến một giải pháp cơ bản lâu dài. Trong khi đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực".

Tuyên bố của Quốc hội Việt Nam tháng 6/1994 nhân dịp phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển đã cụ thể hoá quan điểm của Việt Nam về vấn đề Biển Đông là:

"Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền và quyền tàí phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa, trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để từn gìảì pháp cơ bản, lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực".

Quốc hội Việt Nam nhấn mạnh:

"Cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982".

Sở dĩ có điều nhấn mạnh này là để đối phó với sự việc năm 1992 Trung Quốc đã ký với Công ty Crestone của Hoa Kỳ cho công ty này thăm dò khai thác một lô rộng 25.500 km2 trên thềm lục địa Việt Nam cách đường cơ sở của Việt Nam 84 hải lý và cách Hải Nam 570 hải lý. Theo tin nước ngoài ngày 4/12/1996 Công ty Benton Oil và Gas có trụ sở ở Califomia đã mua lại Công ty Crestone với giá 15,45 triệu USD vâ do đó đã thay thế Công ty Crestone trong quan hệ với Trung Quốc để thực hiện hợp đồng mà Crestone đã ký với Trung Quốc.

Ngày 10/6/1994 Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn tuyên bố rằng lô Thanh long, phía Tây khu vực Tư Chính cách đảo Hòn Hải nằm trên đường cơ sở của Việt Nam 90 hải lý cũng thuộc chủ quyền của Trung Quốc vì đó là vùng phụ cận của quần đảo Nam Sa.

Về yêu sách của Trung Quốc đối với thềm lục địa Việt Nam ở khu vực Tư Chính, Thanh Long, xin giới thiệu một số ý kiến của Luật sư Brice Clagett Văn phòng luật sư Covington và Burling ở Washington đăng trên tạp chí Dầu mỏ và khí đốt của Anh (các số 10 và 11 năm 1995) để tham khảo, Clagett viết: "Lô Thanh Long nằm ngay trên thềm lục địa Việt Nam, thậm chí cả trong nghĩa hẹp của từ ngữ này"; "Theo bất kỳ định nghĩa nào về thềm lục địa hoặc theo bất kỳ quan điểm hơp lý nào của Luật quốc tế, yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Thanh Long là lố bịch", "Có thể kết luận rằng yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực Tư Chính cũng bất hợp lý không hơn không kém yêu sách của họ đối với khu vực Thanh Long. Khu vực Tư Chính tiếp giáp với khu vực Thanh Long về phía Đông, nằm chủ yếu trên dốc lục địa và (có lẽ) bờ lục địa của Víệt Nam. Khu vực Tư Chính bắt đầu từ quãng đường đẳng sâu 150m và tựt xuống rồi kết thúc ở khu vực đồng bằng ở sâu 1800-2000m tách khỏi đảo Trường Sa". "Bờ dốc của đảo Trường Sa nằm đối diện chứ không tiếp liền với bờ dốc của lục địa Việt Nam".

"Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết Biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể được coi là một vấn đề luật pháp nghiêm chỉnh".

Chúng ta đang cố gắng cùng Trung Quốc thực hiện "Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ" giữa hai nước, thực hiện quyết tâm của lãnh đạo hai nước là đẩy nhanh tiên tnnh đàm phán nhằm sớm đi đến ký Hiệp ước về biên giới trên bộ và Hiệp ước phân định Vịnh Bắc bộ để khi bước sang thế kỷ 21 hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã có biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài trên đất liền và ở Vịnh Bắc bộ, đồng thời kiên trì đàm phán về các vấn đề trên Biển Đông để đi đến một giải pháp cơ bản, lâu dài. chúng ta cững chân thành và kiên trì thực hiện thoả thuận "Trong khi đàm phán giải quyết vấn đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh chấp, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực".

Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, giữ vững vị trí của nước Việt Nam trên Biển Đông là một cuộc đấu tranh kết hợp các hoạt động của tất cả các ngành trong đó mặt pháp lý là rất quan trọng, một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài nhưng vô cùng quan trọng và thiêng liêng của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ quốc. Các ngành trong nước đang cùng nhau thực hiện ý kiến thống nhất trong Hội nghị biển toàn quốc tháng 2/1995 là: "Chúng ta phải thức tỉnh ý thức về biển của cả dân tộc, làm chủ được biển của mình, phát triển mạnh mẽ kinh tế biển gắn liền với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của nước ta trên biển, một lần nữa vươn lên trở thành một quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á" .



--------------------------------------------------------------------------------

[1]Đại Nam thực lục chính biên, quyển 104, kỷ thứ hai.

[2]Ghi chú về Châu Á. Tạp chí của Hội nghiên cứu Đông Dương, Tập XVII số 1. tr 79 - 100

[3]Monique Chemillier Gendreau: Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. tr.90

[4] Hiệp ước biên giới trên đất liền này đã được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền ký ngày 3-12-1999.



© Thời Đại Mới



11-12-2007

theo : http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/ ... hNghia.htm
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

VietNamNet : Sức mạnh đồng thuận Việt Nam: Nhìn từ Hoàng Sa

Postby vn_tuoitre on Sat Dec 15, 2007 8:56 pm

Bài (gồm cả hai bức ảnh) đăng trên VietNamNet ngày 10/12/2007
nhưng sau khoảng sáu tiếng đồng hồ thì bị rút xuống


--------------------------------------------------------------------------------

VietNamNet

Sức mạnh đồng thuận Việt Nam: Nhìn từ Hoàng Sa -Trường Sa
10/12/2007 12:41 (GMT + 7)


Cho dù nhiều giá trị có thể bị lẫn lộn, nhiều đường biên quốc gia mờ nhoà trong thời toàn cầu hoá thì lòng yêu nước sẽ và mãi là những giá trị trường tồn. Và mỗi khi chủ quyền dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ đất nước bị xâm phạm, là lúc những người Việt, trong và ngoài nước, ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi, bằng cách này hay cách khác đã lên tiếng!

Tình yêu nước và ý thức dân tộc không phải của riêng ai. Và mỗi người, khi mang trong mình dòng máu Việt, đã chọn cách không im lặng.

Trong hàng nghìn lá thư của độc giả trong và ngoài nước gửi về Tuần Việt Nam - VietNamNet những ngày qua, kể từ khi sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa xảy ra, thấy gì?

Trên các diễn đàn mạng tràn ngập cờ Tổ quốc và những bài viết về Trường Sa, Hoàng Sa của cộng động mạng Việt Nam, thấy gì?

Trong cuộc biểu tình hoà bình của người dân hôm qua (8/12), thấy gì?


Chiến sĩ ở đảo Trường Sa (Ảnh: Phạm Tuấn)

Đó là lòng yêu nước cháy bỏng, sục sôi trong từng lời từng chữ. Là nỗi đau đớn khi chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc bị xâm phạm. Là sự đau đáu đến vận mệnh đất nước, ở ngay những người trẻ, mà những tưởng cuộc sống bộn bề lo toan và đề cao hưởng thụ cá nhân này đã làm phai nhoà.

Và sau mỗi dòng thư, đó còn là lời khẳng định ý sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.

Không cần một lời hiệu triệu. Cũng chẳng cần những sự hô hào. Bạn và tôi, bất kể quá khứ hay chính kiến khác nhau, đã cùng nhìn về một hướng. Để nói lên rằng: Tình yêu với đất nước này, dân tộc này, ngôn ngữ này là vĩnh cửu. Để nói rằng: khi chủ quyền bị xâm phạm, mọi người Việt, dù đứng ở vị trí nào sẵn sàng đoàn kết một lòng vì sự tồn vong của dân tộc!

Trong những dòng thư tâm huyết gửi về, nhiều nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước thiết tha kêu gọi, hơn lúc nào hết, người Việt hãy cùng nhau đoàn kết một lòng vì lợi ích dân tộc. Chính những người Việt ở nước ngoài sẽ là những đại sứ góp phần vận động bạn bè thế giới hiểu và ủng hộ Việt Nam. Vượt qua những khác biệt và quá khứ, rất nhiều người đang âm thầm tự nhận lãnh sứ mệnh "bảo vệ Tổ quốc từ xa" như lời cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh nói về họ.

Chỉ người Việt Nam mới thương lấy nhau, mới thiết tha và sẵn sàng xả thân bảo vệ lợi ích dân tộc. Chân lý bất biến đó, phải qua nhiều trả giá đau đớn mới được vỡ lẽ.

Trong suốt thế kỷ XX đầy bão táp, đã chứng kiến bao nhiêu cuộc móc ngoặc, mặc cả và chia chác của các nước lớn trên lưng dân tộc nhỏ bé này?

Khi hai cuộc chiến tranh khốc liệt bước vào giai đoạn kết thúc, khi các bên đã ngồi vào bàn đàm phán cho một kết cục hoà bình thì phía hậu trường, những đồng minh tưởng như thân tín cũng bước vào cuộc mặc cả sau lưng chúng ta.


Trường Sa - đảo thuộc chủ quyền Việt Nam (Ảnh: Phạm Tuấn)

Đương nhiên, chẳng có gì là khó hiểu khi các nước lớn sẵn sàng hy sinh lợi ích của nước khác, vì lợi ích của chính mình. Lợi ích quốc gia đã biến những khẩu hiệu về tình đoàn kết thuỷ chung như nhất, những mỹ từ của đồng minh duy nhất, đồng minh truyền thống trở thành sáo rỗng.

Ngày nay, không còn dễ dàng cho một nước, cho dù quyền lực có lớn mạnh đến đâu có thể xâm lược các nước khác. Nhưng trong một thế giới toàn cầu hoá, khi chủ nghĩa nước lớn ngày càng có nhiều hình dạng mới, khi những hành động xâm phạm chủ quyền dân tộc ngày càng trở nên tinh vi hơn, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và độc lập toàn vẹn (về cả lãnh thổ cũng như về tinh thần) của một quốc gia nhỏ, yếu vì thế phải đối mặt với những khó khăn khôn lường.

Yếu thực lực thì luôn bị chèn ép, lấn lướt. Yếu thực lực đồng nghĩa với chấp nhận thiệt thòi trong mọi tranh chấp. Đó là thực tế hiển nhiên dù vô cùng cay đắng.

Một nhà lãnh đạo thuộc cấp cao nhất Việt Nam, khi nói về thực tế này, đã kết luận: Muốn thoát khỏi mọi uy hiếp, muốn phát triển được để tồn tại trong thế giới này, muốn bảo vệ được chủ quyền và độc lập dân tộc thực sự, toàn vẹn, nhất thiết dân tộc này phải phấn đấu bằng mọi giá thoát ra khỏi nỗi nhục nghèo, hèn.

Đất nước này phải mạnh lên!

Đột phá để phát triển, giải phóng mọi nguồn lực, trong đó có tiềm lực con người để thoát khỏi thân phận nghèo hèn, chính là sứ mệnh lịch sử của những thế hệ ngày hôm nay.

Hãy để sự kiện hôm nay, như lời giục giã đối với mọi người dân Việt lên đường cho cuộc dấn thân vĩ đại đó.

Minh Anh


( Nguồn : Tuần Việt Nam - VNN )



http://www.viet-studies.info/kinhte/VNN ... oangSa.htm
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ thiêng liêng của VN

Postby vn_tuoitre on Sat Dec 15, 2007 9:02 pm

Hoàng Sa mãi mãi là lãnh thổ thiêng liêng của VN 06:45' 08/12/2007 (GMT+7)
(VietNamNet) – Chủ quyền thiêng liêng đối với Trường Sa và Hoàng Sa đã được minh chứng bằng thời gian và lịch sử của nhiều thế kỷ những cư dân và Nhà nước VN đã quản lý và khai thác vùng lãnh thổ trên biển Đông này.

>> HĐND Đà Nẵng khẳng định Hoàng Sa là huyện trực thuộc TP
>> Cơ sở pháp lý xác lập chủ quyền VN tại Hoàng Sa


Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: TTO
Cách đây hơn 3 thập kỷ, giữa lúc nhân dân Việt Nam đang tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; lại cũng là lúc một số nước lớn đang mặc cả và thoả hiệp với nhau để cản trở sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam, thì ngày 19/01/1974, quân đội Trung Quốc đã tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, lúc này đang do chính quyền Sài Gòn quản lý.

Hơn ba thập kỷ qua, trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung có những bước thăng trầm, Việt Nam vẫn luôn khẳng định Hoàng Sa cùng với Trường Sa là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của mình. Bởi vì chủ quyền ấy đã được minh chứng bằng thời gian và lịch sử của nhiều thế kỷ những cư dân và Nhà nước Việt Nam đã quản lý và khai thác vùng lãnh thổ trên biển Đông này.

Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như với Trường Sa) được minh chứng không chỉ bằng những tài liệu do người nước ngoài ghi chép như sách Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán viết năm 1696, hay của nhiều tác giả Tây phương như Le Poivre(1749), J,Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)…; cũng như những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể liên quan đến hoạt động của các Đội Hoàng Sa xưa ở cửa biển Sa kỳ và đảo Lý Sơn (Cù lao Ré), mà còn được ghi lại trên nhiều thư tịch, trong đó có những văn bản mang tính chất Nhà nước của Việt Nam.

Cho đến nay chúng ta vẫn có bằng chứng đầy đủ về chủ quyền của nhà nước Đại Việt (gồm cả Đàng Ngoài của các chúa Trịnh và Đàng Trong của các chúa Nguyễn đều tôn phò nhà Lê) qua Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ Bản Đồ (của Đỗ Bá Công soạn năm Chính Hoà thứ 7-1686) và sách Phủ Biên Tạp Lục của bác học Lê Quý Đôn (1776)…

Tấm bản đồ trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng:

“Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm… Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn…”

Còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa.

Với sách Phủ Biên Tạp Lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1776), Hoàng Sa còn được mô tả kỹ hơn. Năm 1775, Lê Quý Đôn được Chúa Trịnh cử vào vùng đất Phú Xuân lãnh chức Hiệp trấn để lo việc bình định hai trấn mới thu hồi được từ Chúa Nguyễn là Thuận Hoá và Quảng Nam. Sách dành nhiều trang để mô tả về các “Đội Hoàng Sa” và “Bắc Hải” của chúa Nguyễn tổ chức cho dân vùng Tư Chính, Quảng Ngãi tổ chức thường kỳ việc vượt biển đến Hoàng Sa để thu luợm các sản vật đem về đất liền. Những tư liệu thu thập tại địa phương xã An Vĩnh (Cù lao Ré) còn nói tới “Đội Quế hương” cũng là một hình thức tổ chức do dân lập xin phép nhà nước được ra khai thác ở Hoàng Sa.

Qua thời Nguyễn, kể từ đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện nước Việt Nam (dưới triều Gia Long) và Đại Nam (kể từ triều Minh Mạng) đã chấm dứt tình trạng cát cứ và phân tranh, thống nhất quốc gia thì việc quản lý lãnh thổ được ghi chép đầy đủ và lưu trữ tốt hơn. Tấm bản đồ được lập thời Minh Mạng Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ vẽ rất rõ cả một dải lãnh thổ gồm những đảo trên biển Đông được ghi chú là “Vạn lý Trường Sa” (tên gọi chung cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quan niệm đương thời).

Hai bộ sách địa lý quan trọng của triều Nguyễn là phần Dư Địa Chí trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833) đều đề cập tới Hoàng Sa trong phần viết về phủ Tư Nghĩa và đều chép lại những nội dung của các tài liệu trước, trong đó có hoạt động của các “Đội Hoàng Sa”.

Bộ chính sử Đại Nam Thực Lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn liên tục cho đến thập kỷ đầu của thế kỷ XX đều nhiều lần ghi lại các sự kiện liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa như một bộ phận của lãnh thổ quốc gia. Ngay trong phần Tiền Biên chép về các tiên triều, bộ biên niên sử này cũng nêu lại những sự kiện từ thời các Chúa Nguyễn liên quan đến các quần đảo này.

Một thống kê cho thấy trên bộ sử này, trong phần chính biên ghi chép cho đến thời điểm in khắc đã có 11 đoạn viết về những sự kiện liên quan đến hai quần đảo này. Nội dung cụ thể như là việc nhà nước điều cho thuỷ quân và Đội Hoàng Sa ra đảo để “xem xét và đo đạc thuỷ trình” (quyển 50,52…đời Gia Long); cử người ra Hoàng Sa “dựng miếu, lập bia, trồng cây”, “vẽ bản đồ về hình thế”, “cắm bài gỗ dựng dấu mốc chủ quyền” (quyển số 104, 122, 154, 165 đời Minh Mạng).

Ngoài ra còn các bộ sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ(1851) cũng ghi rõ những công việc nhà nước Đại Nam đã thực thi trên lãnh thổ Hoàng Sa. Và đặc biệt quý giá là những châu bản của các vị vua triều Nguyễn (tức là có thủ bút của nhà vua) có liên quan đến Hoàng Sa. Giá trị của những văn bản gốc này là sự thể hiện quyền lực của người đứng đầu quốc gia đối với vùng lãnh thổ này. Ví như, phê vào phúc tấu của bộ Công ngày 12-2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua viết :”Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước (ta), rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ “Năm Bính Thân Minh Mạng thứ 17, họ tên cai đội thuỷ quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”; hay các châu phê về việc thưởng phạt người có công tội khi thực thi trách nhiệm ở Hoàng Sa, đạc vẽ bản đồ v.v…

Mãi đến năm 1909, lần đầu tiên Trung Quốc mới đề cập đến chủ quyền của mình đối với khu vực lãnh thổ này. Điều đó cho thấy, trong suốt 3 thế kỷ trước đó (XVII-XIX), các tài liệu thư tịch của Nhà nước Việt Nam kế thừa nhau đã liên tục thể hiện chủ quyền lịch sử và thực tiễn quản lý‎ đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa.

Điều đáng nói là, vào thời điểm này, giữa lúc hai nước Việt-Trung đã xác lập được những quan hệ hữu nghị, hợp tác trên những nguyên tắc của "16 chữ vàng” do chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra thì việc Quốc vụ viện Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố cấp huyện Tam Sa” thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đáng để chúng ta phải nhắc lại những bằng chứng và bài học lịch sử!

Dương Trung Quốc


http://vietnamnet.vn/chinhtri/2007/12/758626/
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Sat Dec 15, 2007 9:04 pm

Bức xúc của một nhà khoa học trước việc Trung Quốc bất chấp lẽ phải, chà đạp lên sự thật lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam


Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã ngang nhiên xây sân bay trên đảo
TT - Quyết định của Quốc vụ viện Trung Quốc thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý ba quần đảo, trong đó có quần đảo Tây Sa và Nam Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, là hành động ngang ngược, bất chấp lẽ phải, chà đạp lên sự thật lịch sử về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo ấy.

Nghe đọc nội dung toàn bài:



Luận điểm đầu tiên của chính quyền tỉnh Quảng Đông khi công khai khảo sát Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa vào năm 1909, là cho rằng quần đảo "Tây Sa" là đất vô chủ (res nullius), hải quân tỉnh Quảng Đông cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát súng đại bác tại một số đảo ở Hoàng Sa năm 1909.

Sau khi dùng vũ lực một cách bất hợp pháp cưỡng chiếm Hoàng Sa vào trung tuần tháng giêng năm 1974, Trung Quốc đã cố gắng tìm kiếm tài liệu để cố gán ghép bằng cách cắt xén, nếu cần thì xuyên tạc với sự đóng góp của các nhà học giả như Sử Lệ Tổ đưa ra luận điểm cho rằng "các đảo Nam Hải từ cổ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc", do nhân dân Trung Quốc "phát hiện sớm nhất", "kinh doanh sớm nhất", do chính phủ các triều đại Trung Quốc "quản hạt sớm nhất" và viện dẫn nhiều tài liệu lịch sử mang tính suy diễn để dẫn chứng (Quang Minh Nhật Báo, 24-11-1975).

Những luận cứ cố gán ghép

* Những tư liệu phương Tây xác nhận về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:



- Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.

- Le mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels.

- An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracels và nằm trong vùng biển của Việt Nam.

- The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels).

- The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...

Để minh chứng cho sự xác lập chủ quyền của mình ở Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc lại cũng đưa ra những luận điểm được coi là "vững mạnh nhất" như sau:

1.

Trung Quốc khẳng định các đảo Nam Hải đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường năm 789. Đúng sử sách Trung Quốc như sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát có chép những thay đổi về qui chế hành chính từ đời Hán đến đời Tống, trong đó có việc Quỳnh Sơn, một quận của đảo Hải Nam thời đó (xin nhấn mạnh) - sau thuộc thành phố Hải Khẩu - được đặt thành "phủ đô đốc" vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, tức năm 789.

Nhưng qua các sách Đường Thư, Thái Bình Hoàn Vũ Ký, Dư Địa Kỷ Thăng (1221), Quảng Đông Thông Chí (1842) thì vào năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường tại đảo Hải Nam chỉ thấy có chuyện kể viên đô đốc nhà Đường là Lý Phục mang quân sang lấy lại đảo Hải Nam sau hơn 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo và xin vua Đường đặt phủ đô đốc ở quận Quỳnh Sơn, không hề có chuyện "sáp nhập bất kỳ đảo ở biển Nam Trung Hoa vào đảo Hải Nam".

2.

Trung Quốc phái thủy quân đi "tuần tiễu", Trung Quốc đã viện dẫn các sự kiện để chứng minh. Trước hết về luận cứ "phái thủy quân tuần tiễu cương giới biển", luận chứng của nhóm Hàn Chấn Hoa chỉ dựa vào một đoạn trong sách Vũ Kinh Tổng Yếu, song những đoạn văn này hoàn toàn không chứng minh được lập luận "Trung Quốc phái thủy quân tuần tiễu quần đảo Tây Sa bắt đầu đời Tống".

Nhóm Hàn Chấn Hoa đã cố gán ghép hai đoạn văn vào với nhau gồm đoạn văn nói về lộ trình "Từ đồn Môn Sơn đến các nước Đại Thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc" tiếp liền vào đoạn văn đầu viết về "đặt dinh lũy thủy quân tuần tiễu ở hai cửa biển Đông và Tây". Điều này không đúng với nguyên bản Vũ Kinh Tổng Yếu. Đây chỉ là sự cố gán ghép "đầu Ngô mình Sở" để cố minh chứng việc tuần tiễu thủy quân đời Tống qua đất "Cửu Nhũ Loa Châu" mà nhóm này cho là Tây Sa.

Còn việc tuần tiễu của Ngô Thăng, trước hết tìm hiểu vị trí các địa danh trên, chúng ta được biết Quỳnh Nhai là thủ phủ Quỳnh Châu ở phía bắc đảo Hải Nam, Đồng Cổ là quả núi cao 339m ở phía đông bắc đảo Hải Nam, Thất Châu Dương là phía đông đảo Hải Nam, Tư Canh Sa là bãi cát phía tây đảo Hải Nam. Đây chỉ là cuộc tuần tiễu của Ngô Thăng quanh đảo Hải Nam, chứ không đến Tây Sa, nên nhớ rằng Thất Châu Dương ở phía đông đảo Hải Nam nên không hề là Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, vốn cách Hải Nam hơn 350 hải lý về phía đông nam.

3.

Các đảo Nam Hải đã được vẽ vào bản đồ Trung Quốc. Các tác giả bộ sưu tập do Hàn Chấn Hoa chủ biên cũng rất "công phu" đưa ra 13 bản đồ và chia làm hai loại. Một loại là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh có vẽ các đảo Nam Hải. Một loại khác là bản đồ Trung Quốc thời Minh Thanh và các nước phiên thuộc, cũng có vẽ các đảo Nam Hải.

Bằng chứng thuyết phục


Máy bay Trung Quốc ở Hoàng Sa. Hiện Trung Quốc đã tổ chức tour du lịch tham quan Hoàng Sa chỉ dành cho người Trung Quốc!


Có rất nhiều bản đồ chính thức của Trung Quốc từ đời Nguyên, Minh đến Thanh, trong đó có bản đồ ấn bản gần thời điểm có tranh chấp như bản đồ Đại Thanh Đế Quốc trong Đại Thanh Đế Quốc toàn đồ, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910 đã vẽ cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, không vẽ bất cứ hải đảo nào khác ở biển Đông.

Bản đồ Hoàng Triều Nhất Thống dư địa tổng đồ trong cuốn Hoàng Thanh Nhất Thống dư địa toàn đồ xuất bản năm Quang Tự 20 (1894) đã ghi rõ cực nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông ở 18 độ 30 phút Bắc, trong khi Tây Sa hay Hoàng Sa được Trung Quốc đặt tên, có đảo ở vị trí cao nhất là 17 độ 5 phút. Điều này chứng tỏ Tây Sa hay Hoàng Sa chưa hề là lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong khi đó, ngay tài liệu của chính người Trung Quốc như Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Vạn Lý Trường Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.

Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, năm 1686, trong Hồng Đức Bản Đồ hay Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ và Phủ Biên Tạp Lục, năm 1776 của Lê Quý Đôn.

Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tài liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

- Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.

- Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

- Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

- Tài liệu rất quí giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.

- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...

Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.

Về những tư liệu của Trung Quốc và phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:

- Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.

- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.



TS NGUYỄN NHÃ
http://www3.tuoitre.com.vn/Tianyon/Inde ... hannelID=3
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby chanqtraibien on Sun Dec 16, 2007 3:20 pm

Trích tường thuật về biểu tình 9h ngày CN tại ĐSQ Trung Quốc...

...Vừa lúc ấy bên vườn hoa khỏang 30 người đã tụ tập, anh bạn anh ninh rảo bước vội về. Tôi cầm máy ảnh lao theo. Đến nơi thấy mọi người đang hô khẩu hiểu, các bà , các bác, các cô hô trong nước mắt thể hiện tinh thần của con cháu Trưng Vương.- Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

- Đời này không đời được thì đời con cháu chúng ta sẽ đòi
- Chúng ta không đòi được xấu hổ với con cháu chúng ta.
Cảnh sát đứng vây quanh, nhưng họ chỉ nhắc nhở mọi người đứng lên vỉa hè, tránh đứng dưới lòng đường. Đám người tiếp tục kéo đến đông thêm. Thái độ của cảnh sát thật đáng yêu, họ luôn nhẹ nhàng nhắc nhở mọi người không quá khích, không tràn sang bên vỉa hè đại sứ quán. Cậu thanh niên hỏi tôi lúc đầu tiên hô hào hăng hái nhất, tiếp theo là vài thanh niên trẻ, rồi đến trung niên, bà già. Đám đông tụ tập nhanh chóng đến bất ngờ, khẩu hiệu được giăng ra. Mọi người hát bài Việt Nam Hồ Chí Minh, Nối Vòng Tay Lớn tiếng vỗ tay vang dội cả đoạn đường. Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, tôi hoà mình giữa đám đông cùng hô khẩu hiệu phản đối Trung Quốc . Các phóng viên của truyền thông nước ngoài chụp ảnh và quay phim lia lịa mà không hề gặp sự ngăn chặn nào từ phía cảnh sát. Nhiều người có máy ảnh cũng được tự do chụp tuỳ thích. Hàng rào công an tập trung nhìn đám đông, họ chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng những ai có ý định quá khích. Một số an ninh mặc thường phục cũng dùng máy ảnh chụp. Ở một góc đám đông, một số người đang tranh luận về tinh thần tổ quốc, người đàn ông định đạc trong bộ com le nói một cách quyết liệt về tình dân tộc với một cựu đảng viên, anh cho rằng ở vai trò lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam phải có tiếng nói riêng của mình. Ông già đảng viên kỳ cựu thì cho rằng Đảng đã nói qua lời tuyên bố của ông Lê Dũng. Hai bên tranh cãi nhau về ai yêu nước hết, quần chúng nhân dân hoà giải họ để tiếp tục giơ nhưng nắm tay bầy tỏ sự phản kháng mãnh liệt đối với hành động của nhà cầm quyền Trung Quốc. Hai bố con nhà nhiếp ảnh gia Xuân Bình xuất hiện vận áo đỏ sao vàng, anh Xuân Bình giơ tấm khẩu hiệu mà anh vừa in vội ở cửa hàng gần đó lên, khẩu hiệu bằng tiếng Anh khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Sự xuất hiện của bố con anh tạo thêm một luồng sóng cuộn dâng, những người Việt Nam yêu nước sát vai bên nhau giơ nắm đấm hét thành tiếng hào hùng như lời Sát Thát khi xưa. Thật xúc động khi nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy hồn dân tộc đang bừng bừng dâng cao trước đại sứ Trung Quốc...

Bất chợt cổng đại sứ mở, ai đó hét- A chúng nó mở cửa, chúng nó không sợ, chúng ta sợ gì mà không vào?Tôi đứng giữa đám đông ngăn- Thôi đừng manh động, mình khồng thể ùa vào đó đâu. May mọi người trấn tĩnh, cổng đại sứ khép lại rất nhanh, dường như có ai định đi đâu nhưng nghĩ lại họ đi đằng khác. Vì lúc này cảnh sát đã chăng dây và xe đặc chủng đã chặn hai đầu đường.Đám đông lại đông thêm đã hơn 500 người,bố con anh Xuân Bình nổi bật giữa đám đông với màu đỏ chót và tấm khẩu hiệu. Cuộc biểu tình này có nhiều thành phần trong nhân dân từ cán bộ, công nhân viên, đến học sinh, sinh viên. Có phụ nữ cụ già và trẻ em. Nhiều thanh niên rất hăng hái, họ phất cờ chạy vòng rộng khích lệ tinh thần trong tiếng vỗ tay vang dội. Chưa bao giờ tôi thấy nghẹn ngào xúc động như hôm nay, người Việt Nam đã tỏ rõ tinh thần bất khuất chống ngaọi xâm của dân tộc. Một cụ già được cô cháu gái dìu nói trong nước mắt- Tôi già rồi không hô hào được, cám ơn các cháu trẻ tuổi đã làm giúp tôi. Tôi từng đổ máu bảo vệ tổ quốc này, tôi xót xa lắm, đau đớn lắm. Các cháu cứ làm đi, nếu ai bắt bớ khủng bố tôi xin đem thân già tôi ra chịu trướcMọi người đều xúc động trước tình cảm của cụ đối với đất nước. Anh trung niên giơ tay nói- Dù có mất tất cả chúng ta cũng không chịu nhục, không chịu làm nô lệ. Tôi nguyện hy sinh cầm súng bảo vệ tổ quốc mình. Đám đông giơ tay hưởng ứng. Mấy người cảnh sát xen vào nói ôn tồn- Làm gì có ai bắt bớ mọi người đâu, mọi người giữ ôn hoà là được rồi. Mà thôi hô thế cũng đủ rồi, về nhà nghỉ ngơi thôi. Mình phản ứng thế chúng nó cũng biết, cũng thấy rồi.Một chiếc xe cảnh sát có loa đi tới, người ngồi trên xe mặc bộ màu xanh thẫm như kiểu dân phòng cầm micro nói- Yêu cầu mọi người giải tán, việc này đã có chính phủ Việt Nam và Trung Hoa giải quếtCâu nói trịch thượng này khiến đám đông phẫn nộ, họ phản đối nhao nhao- Giải quyết gì, 30 năm nay rồi có giải quyết gì đâu- Không giải tán, quyền gì mà bắt chúng tôi giải tán- Định áp bức à? Bên vỉa hè đại sứ quán, một người đàn ông có vẻ có quyền đi đến bên người cầm loa nói nhỏ gì đó, người cầm loa thay đổi cách nói- Bà con không tụ tập đây nữa, như thế là đủ rồi, chúng ta về nghỉ ngơi thôiMặc kệ họ, chúng ta thể hiện tinh thần yêu nước không giải tán .Ngưòi ta hét to, mấy người phụ nữ cao tuổi giăng cờ Việt Nam ngang ngực ra sức hô khẩu hiệu- Hoàng Sa, Trường SaĐám đông hưởng ứng- VIệt Nam, Việt Nam Người bắt nhịp khản cổ, người khác đứng ra thay. Trên gương mặt cùng bừng bừng phẫn nộ. Ai đó mang thùng Lavie để dưới đất cho ai muốn uống thì uống. Thấy tình hình kéo dài thì nguy cơ đàon người mỗi lúc một đông thêm. Bỗng nhiên lao công an nói- Các đồng chí xem xe máy của ai để ở chân tượng đài mà không có chủ thì cho lên ô tôLập tức đám đông nhiều người ùa chạy vội đi lấy xe, công an dàn hàng ngang tiến vào đám biểu tình. Nhưng thái độ của những nhà chức trách trong buổi biểu tình hôm nay rất tôn trọng đám đông. Mặc dù họ tràn tới nhưng lời lẽ rất nhẹ nhàng, chân tình đại loại như- Thôi anh, chị, cô, chú, các em về nghỉ ngơi thôi, cho bọn tôi nghỉ với. Mình hôm nay hô hào thế là nhiều rồi.Họ vừa nói vừa cười thân thiện, không hề có lời lẽ đe doạ hay hành động khiếm nhã nào. Họ cứ len vào đám đông thuyết ôm hục và chia cắt. Dường như mọi người cũng đã mệt, cho nên họ lần lượt đi về.Khi mọi người ra về gần hết, công an vẫn giăng ngang vườn hoa thành một hàng rào. Nhiều cảnh sát cầm dui cui nhưng trên gương mặt họ nở nụ cười tủm tỉm. Còn dân chúng thì hả hê như trút được bức xúc trước hành động ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Thật đáng tiếc khi đám người biểu tình lan toả ra về, trên dòng người tấp nập đường Điên Biên Phủ nhiều người tò mò dừng lại hỏi biểu tình gì, khi thấy nói biểu tình phản đối Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa...

(Từ internet :|)
www.ttvnol.com/binhdinh.ttvn
User avatar
chanqtraibien
Đội hình 1
Đội hình 1
 
Posts: 415
Joined: Wed Mar 02, 2005 1:36 am
Location: Gam cau - Nghia dia city
Blog: View Blog (1)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby chanqtraibien on Sun Dec 16, 2007 3:50 pm

Biểu tình tại Hà Nội:
Image
Image


Sài Gòn
www.ttvnol.com/binhdinh.ttvn
User avatar
chanqtraibien
Đội hình 1
Đội hình 1
 
Posts: 415
Joined: Wed Mar 02, 2005 1:36 am
Location: Gam cau - Nghia dia city
Blog: View Blog (1)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby chukme on Mon Dec 17, 2007 12:55 am

Anh em ta nên gộp các tin về Trường sa- Hòang sa vào 1 topic thôi, đừng mở nhiều topic quá bị lõang. Nếu được thì anh vn-tuoitre hay mod gộp lại chung nhé.

Anh em binhdinhffc có ai tham gia 2 đợt biểu tình không?? Sao thấy ở đây im lặmg quá hihihi.
chukme
Đội hình 1
Đội hình 1
 
Posts: 354
Joined: Sat Mar 17, 2007 11:46 am
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:48 pm

Đinh Bá Anh
Hơn 1000 người biểu tình ở Hà Nội
(Tường thuật từ Hà Nội)

Hà Nội, Chủ nhật 16.12.2007, 9h10’. Đường Hoàng Diệu, đoạn có Đại sứ quán Trung Quốc, bị chặn hai đầu. Lực lượng công an bao gồm công an áo xanh, cảnh sát cơ động áo đen và cảnh sát chìm mặc thường phục rất đông. Họ đứng chặn từ các ngã tư Nguyễn Thái Học – Cao Bá Quát, Nguyễn Thái Học – Văn Miếu và ngăn những người biểu tình từ xa. Khi nhóm chúng tôi đến gần ngã tư Hoàng Diệu - Trần Phú, một anh cảnh sát băng qua ngã tư và chặn lại, hỏi: “Các anh đi đâu?”. Một người nói: “Chúng tôi đi biểu tình”. Anh cảnh sát nói: “Chúng tôi biết các bạn rất bức xúc, nhưng các bạn hãy về đi. Việc này Đảng và Nhà nước đã có chủ trương đàm phán ôn hòa.” Một người nói: “Chúng tôi nghe nhiều rồi. Chúng tôi cần sự minh bạch!”. Anh cảnh sát nói: “Các bạn về đi. Thông cảm cho chúng tôi.” Ngôn từ của người cảnh sát nói chung là nhã nhặn.

Lúc này tôi nhìn quanh thì chỉ thấy mấy đám nhỏ lẻ. Bên kia đường, mấy bạn sinh viên cố giương cao một tấm biểu ngữ nhưng cứ mỗi lần muốn giương lên lại bị cảnh sát quây lại. Giằng co như thế khoảng 10 phút.

Không đi tiếp được, nhóm chúng tôi quay lại. Đang đi thì gặp một người bạn. Anh ta nói: “Biểu tình tan rồi. Bị quây khiếp quá. Tất cả các nhóm bị xé lẻ hết.”

Một người nói: “Phải tập hợp lại! Các nhóm kia đâu hết rồi?”

Đang lúc không biết phải làm gì, chúng tôi chợt nghe tiếng hô vang từ ngã tư Văn Miếu - Nguyễn Thái Học: “Việt Nam! Việt Nam!”, “Hoàng Sa! Trường Sa!”. Chúng tôi vội băng qua đường và nhập vào đoàn biểu tình. Hóa ra các nhóm đã kịp tập hợp lại ở góc kia Văn Miếu, đoạn ngã tư Cát Linh – Tôn Đức Thắng.



Xem chùm ảnh về cuộc biểu tình ngày 16.12.2007 tại Hà Nội » (ảnh: Đinh Bá Anh)

Lúc ấy là khoảng 9h40 phút. Đoàn biểu tình tập hợp lại khoảng 400 - 500 người, bắt đầu cuộc diễu hành xung quanh Văn Miếu. Những người biểu tình mang cờ và các biểu ngữ phản đối Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và cảnh báo về nguy cơ bành trướng của Trung Quốc. Bên cạnh những biểu ngữ tiếng Việt, nhiều biểu ngữ được viết bằng tiếng Anh: “Hoang Sa, Truong Sa belong to Vietnam!”, “China hegemony jeopardizes Asia!”. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt bằng chữ Hán được in trên hàng chục tấm biểu ngữ hình chữ nhật hai mặt (mặt kia là hình các chiến sĩ hải quân Việt Nam đang bồng súng). Nhiều người còn ghi nguyên cả câu “Việc chính phủ Trung Quốc xâm phạm chủ quyền làm quan hại đến quan hệ hữu hảo giữa hai nước Việt – Trung” lên biểu ngữ, hẳn lại nhại lại tuyên bố của ông Tần Cương.

Khi đi ngược lên ngã tư Văn Miếu – Cát Linh, đoàn biểu tình đã lên đến khoảng 700-800 người. Không khí biểu tình có thể nói là hòa bình. Những người biểu tình nhắc nhau đi lên vỉa hè để không gây ách tắc giao thông. Cảnh sát khoảng 100 người mặc quân phục luôn đi sát đoàn biểu tình (lực lượng cảnh sát chìm đi lẫn vào đoàn biểu tình là bao nhiêu thì không rõ). Gần như không có xô xát hoặc lời qua tiếng lại gay gắt giữa hai bên. Một số người biểu tình trèo lên tường Văn Miếu để vẫy cờ và hô khẩu hiệu. Lập tức cảnh sát can thiệp.

Hàng trăm người trong đoàn biểu tình mang theo máy ảnh, camera. Tôi có nhìn thấy một số phóng viên nước ngoài. Họ thường chạy lên trước đoàn biểu tình để chụp ảnh.

10h30’. Đoàn biểu tình đã lên đến hơn 1000 người đi vào đường Cát Linh. Nhiều người dân ở hai bên phố cũng nhập vào đoàn biểu tình. Tôi chứng kiến một bác đang đi xe máy dừng lại hỏi một cô sinh viên: “Chuyện gì thế?”. Cô sinh viên nói: “Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa rồi bác ơi. Mất đất rồi!”. Không rõ là vì hiếu kì hay bị lời nói của cô gái gây tác động, tôi thấy bác cho xe đi chậm lại cùng đoàn biểu tình. Nhiều người đi xe máy cũng dừng lại. Giao thông tắc nghẽn một đoạn dài. Tôi nhìn kĩ thì thấy rằng đoàn biểu tình không chỉ có thanh niên. Nhiều người đứng tuổi. Một số người còn dắt theo trẻ em.

Khoảng 10h50, đoàn biểu tình đi đến đường Giảng Võ. Lúc này là cao trào. Đoàn biểu tình hát vang những bài ca cách mạng: “Tiến quân ca”, “Lên đàng”, “Nối vòng tay lớn”, “Dậy mà đi”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”…

Lúc này cảnh sát đã được tăng cường. Khi tôi tách ra khỏi đám đông thì thấy, không biết từ bao giờ, hàng trăm cảnh sát 113 mặc quân phục áo đen cầm dùi cui đi bọc sát đoàn biểu tình. Tôi cảm thấy là họ sắp can thiệp mạnh hơn.

Đoàn biểu tình nhắc nhau giữ trật tự, không gây xô xát. Tuy nhiên, không khí căng lên hẳn. Nhiều người giơ camera chụp cảnh sát.

Đoàn biểu tình tiếp tục đi. Lực lượng 113 càng ngày càng đông hơn. Họ bắt đầu lặng lẽ tách đoàn biểu tình thành từng nhóm, bằng cách ngắt dần từng người lẻ một. Tôi vội đi vào giữa đoàn để không bị ngắt.

Đến ngã ba rẽ vào Khu tập thể Giảng Võ, một nhóm biểu tình vượt qua đường định đi tiếp về hướng Đại sứ quán Mỹ, một nhóm khác bị lực lượng 113 dày đặc chắn thành bức tường, ép rẽ. Chen lấn, xô đẩy. Đoàn biểu tình vỡ làm hai nhóm.

Nhóm vượt qua đường bị cảnh sát xé nhỏ, gần như lập tức tan rã. Nhóm rẽ đi tiếp một đoạn đến Hồ Giảng Võ, trước toà nhà Ngân hàng Nam Á thì bị chặn lại. Tôi nghe có tiếng ra lệnh: “Chia nhỏ ra! Thu hết các khẩu hiệu đi!”.

Những người biểu tình bị lực lượng cảnh sát dày đặc sáp lại giật các biểu ngữ. Lời qua tiếng lại, nhưng gần như không có sự kháng cự nào đáng kể.

11h15’. Cuộc biểu tình tan rã. Nhiều người biểu tình hô to: “Chủ nhật tuần sau!”

Sau cuộc biểu tình, nhiều người còn tụ lại thành từng nhóm bàn tán. Tôi nghe nói, còn có một nhóm 200-300 người biểu tình khác bị chặn ở phía các phố Phan Đình Phùng, Trần Phú. Nhóm này sau đó diễu hành quanh các phố Đinh Tiền Hoàng, Lý Thái Tổ, nhưng cũng sớm bị giải tán.

Tôi cũng nghe nói có vài người bị cảnh sát bắt đưa lên xe.


© 2007 talawas
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:49 pm

Ngô Thế Vinh
Đá Vành Khăn: Bài học đối đầu giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa

Trận Armageddon trên Biển Đông

Vào những ngày thời tiết tốt, trời trong xanh như ngọc chan hòa nắng ấm giữa Biển Đông, có ai nghĩ được rằng những cụm đá, những vành san hô rải rác đó đây lại có thể trở thành lò thuốc súng, có nguy cơ nổ ra một trận chiến tranh vùng giữa các nước châu Á đang xâu xé nhau vì quyền lợi. Xa hơn nữa, như hư cấu tiểu thuyết Dragon Strike của Hawksley, tranh chấp trên Trường Sa có thể đưa tới cuộc Thế chiến thứ Ba.

Các vụ nổ súng lẻ tẻ làm chết hay bị thương dăm ba thủy thủ hay dân chài là chuyện vẫn thường xuyên xảy ra quanh Trường Sa, nhưng lại chẳng được coi là quan trọng để trở thành các dòng tin trên báo chí.

Ít ra cho đến bây giờ Hoa Kỳ vẫn cố kiềm chế, làm ra vẻ mối nguy cơ đụng độ giữa hai siêu cường Mỹ và Hoa lục trên Thái Bình Dương là không có thật. Nhưng trước thái độ hung hãn của Trung Quốc mới đây, Mỹ đã phải khởi sự kế hoạch “lá chắn tên lửa TMD” (Theater Missile Defence) nhằm vô hiệu hóa mọi cuộc tấn công phi đạn của đối phương để bảo vệ cho các đơn vị lính Mỹ trú đóng và cả ba đồng minh châu Á thiết thân của Mỹ là Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan, cho dù Bắc Kinh hết sức giận dữ và cực lực phản kháng.


Vành khăn sô trên Biển Đông

Sự kiện gây chú ý cho toàn thế giới là vào tháng 2 năm 1995, giới quân sự Phi đã phát hiện Trung cộng đang xây các công sự hình bát giác trên bốn phía của hòn đảo nhỏ Vành Khăn (Mischief Reef) thuộc vùng lãnh hải của Phi. Vành Khăn được quen gọi là “đảo” thực sự chỉ là “đá” (reef) như một vành san hô mấp mé dưới mặt nước. Nhưng với các công trình xây cất của Trung Quốc ngày càng mở rộng và nâng cao thì tương lai Vành Khăn nghiễm nhiên trở thành một đảo nhân tạo.

Ai cũng biết Trung Quốc đã vi phạm Luật Biển (LOS Convention) nhưng Bắc Kinh vẫn ngang nhiên tuyên bố Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) trong vùng biển Lưỡi Rồng là của Trung Quốc, cho dù cách xa Hoa Lục cả ngàn km và chỉ cách đảo Palawan của Phi chưa đầy 200km.

Trong lúc cuộc thương thảo giữa Phi và Trung Quốc đang diễn ra ở Bắc Kinh vào tháng 3 năm 1995, bằng một phản ứng ngoạn mục, không lực Phi đã bất thần oanh tạc phá hủy một loạt các cấu trúc xây trên đá Vành Khăn, trên các bãi đá ngầm Trăng Khuyên (Half Moon), bãi Sa Bin (Sabina Shoal) và đồng thời hải quân Phi cũng bắt giữ 60 ngư phủ Trung Quốc đánh cá bất hợp pháp trong vùng lãnh hải của Phi.

Chiến thuật đoản kỳ của Trung Quốc là “mềm nắn rắn buông”, nhưng chiến lược trường kỳ của họ là tiếp tục bền bỉ chánh sách “tàm thực” (tằm ăn dâu). Dó đó mà tình hình chỉ tạm lắng dịu cho tới tháng 10 năm 98, khi các mùa dông bão qua đi, máy bay thám sát Phi đã lại chụp được những bức không ảnh cho thấy Trung Quốc tiếp tục khẩn trương xây cất các công sự kiên cố và lớn hơn trên đá Vành Khăn và có khả năng lan rộng ra các đảo và đá khác. Phi cũng ghi nhận được các tàu vận tải chở vật liệu kiến trúc đến với hàng trăm lính công binh Trung Quốc đang dựng khung xây cất thêm những công sự mới. Căng thẳng hơn nữa là có cả những chiến hạm loại Dazhi của hải quân Trung Quốc có nhiệm vụ yểm trợ cho các tiềm thủy đĩnh hoạt động trong vùng.
B. A. Hamzak, giám đốc Viện Nghiên cứu Hàng hải Mã Lai gọi “Hành động mới đây của Trung Quốc là hết sức vô trách nhiệm và cả hăm dọa... Nó đã không xây dựng được lòng tin cậy và an ninh trong vùng”. Chính B. A. Hamzak đã đưa ra một từ mới rất gợi hình là “Tây Tạng hóa Biển Đông”, đang được báo chí và giới ngoại giao sử dụng, nói tới tình huống các nước Đông Nam Á một hôm thức dậy thấy Biển Đông đã nằm trong tay Hoa lục, giống như cảnh ngộ của quốc gia Tây Tạng.


Vành Khăn trong một chuỗi biến cố

Ai có theo dõi tình hình cũng biết đây là một trong chuỗi biến cố có tính toán của Trung Quốc trong hơn ba thập niên qua nhằm “xác định chủ quyền trên Biển Đông” bằng sức mạnh quân sự, khi mà các lý lẽ lịch sử viện dẫn không có tính thuyết phục.

1974 Trung Quốc cưỡng chiếm toàn quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) đang thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa;
1988 Trung Quốc chiếm thêm một số đảo và đá trong quần đảo Trường Sa đang thuộc quyền kiểm soát của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
1995 Trung Quốc âm thầm chiếm đá Vành Khăn nằm trong Vùng EEZ Kinh tế Đặc quyền của Phi;
1998 Trung Quốc tiếp tục xây các căn cứ quân sự lâu dài trên đá Vành Khăn, có cả sân bay trực thăng, đài radar, những ụ súng phòng không, treo cờ Trung cộng và có các chiến hạm tuần tiễu, bất chấp sự phản kháng mạnh mẽ của Phi.

Những ngọn cờ trên Trường Sa

Quần đảo Trường Sa cho tới nay không phải là những đảo có dân cư trú, ngoại trừ những đơn vị quân đội của 5 quốc gia đang chiếm đóng, gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Đài Loan và Trung Quốc. Thêm Brunei cũng lên tiếng tham dự vào cuộc tranh chấp. Trong số hàng trăm đơn vị đảo, đá, cồn và bãi với tổng số diện tích không quá mười cây số vuông (10km2) với nhiều đơn vị không có tên, tính đến nay:

Việt Nam hiện chiếm giữ cả thảy 13 cao địa, 22 đơn vị có tên và một số không tên. Đảo Trường Sa (Spratly) là nơi có bộ chỉ huy Việt Nam trú đóng.
Phi Luật Tân hiện chiếm cả thảy 10 cao địa, 18 đơn vị có tên và một số không tên. Không kể đá Vành Khăn (Mischief Reef) trên thực tế đã bị Trung Quốc chiếm.
Trung Quốc hiện chiếm 2 cao địa và 9 đá chìm và bãi ngầm có tên. Đá Chữ Thập (Fierry Cross Reef, chiếm của Việt Nam năm 1988) là nơi đặt bộ chỉ huy quần đảo Trường Sa của Trung Quốc.
Mã Lai hiện chiếm giữ 2 cao địa và 4 đơn vị có tên.
Đài Loan chiếm 1 cao địa: đảo Ba Bình (Itu Aba) cũng là đảo lớn nhất tại Trường Sa (xem sơ đồ 1 / Heinemann 95, chỉ ghi những địa danh chính).


Những lời than thở

Tháng 11/98 vừa qua, ngoại trưởng Phi Domingo Siazon đã nói trước quốc hội Phi rằng các công trình xây cất quy mô mới đây của Trung Quốc là kế hoạch quốc phòng thế kỷ 21 của Bắc Kinh nhằm bành trướng ra ngoài Đông Á và bao trùm cả Thái Bình Dương.

Trước những diễn tiến dồn dập trên đá Vành Khăn, hoàn toàn bất lợi cho Phi, Siazon chỉ còn biết than thở: “Chúng tôi yêu cầu Trung Quốc rút khỏi đá Vành Khăn, họ nói không. Chúng tôi yêu cầu cuộc tranh chấp được giải quyết qua một hội nghị quốc tế, họ cũng nói không. Chúng tôi đề nghị một chương trình hợp tác phát triển thì họ bảo để coi!”

Rồi Siazon tiếp: “Chúng tôi thì không có khả năng tới vùng biển ấy, hải quân Phi chỉ gồm có mươi chiếc tàu tuần (patrol boats) và đã được lệnh phải tránh xa để không gây sự biến nào”. Trung Quốc đã đưa lời cảnh cáo là tàu bè Phi không được tới gần hơn 5 hải lý và máy bay tuần thám Phi cũng không được bay thấp hơn 1500m.

Do có hiệp ước liên minh quân sự với Washington, bộ trưởng quốc phòng Phi Mercado đã kêu gọi Mỹ can thiệp, nhưng chánh phủ Clinton lạnh lùng trả lời là hiệp ước không áp dụng cho các vùng lãnh hải đó.

Chẳng còn một chọn lựa nào khác, Phi chỉ còn biết tuân thủ những đòi hỏi vô lối của Bắc Kinh. Cho dù đang giữa cuộc tranh chấp nhưng trên thực tế đá Vành Khăn đã tuột khỏi quyền kiểm soát của Manila.

Và trong chuyến du hành cuối năm 98 vừa qua, tư lệnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương, đô đốc Joseph Prueher cũng chỉ phát biểu một cách chung chung là “Hoa Kỳ sẽ theo dõi sát diễn tiến trên đá Vành Khăn”. Bề ngoài thì như vậy nhưng bên trong không thể không có mối âu lo, phản ánh bằng câu nói của viên sĩ quan hải quân Mỹ với phóng viên tờ National Geographic: “Tôi chỉ mong sao họ không tìm ra dầu ở Trường Sa”.

Dầu khí thì chắc chắn là có ngoài Biển Đông và điển hình là đang có ba bãi dầu được khai thác: bãi Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, bãi Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi và bãi Natuna của Nam Dương.


Một an ủi có còn hơn không

Ý thức được sự quá yếu kém về quân sự, Phi bền bỉ trong các cuộc vận động ngoại giao, đòi đưa vấn đề ra trước đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và cả vận động giới lập pháp Mỹ quan tâm nhiều hơn tới cuộc tranh chấp Trường Sa.

Ít ra cũng đã có một nghị sĩ cộng hòa, Dana Rohrabacher (Huntington Beach, California), thuộc Ủy ban Liên lạc Quốc tế Hạ viện Mỹ lên tiếng. Ngày 10 tháng 12 1998 ông được đưa lên một chiếc phi cơ quân sự C 130 của Phi bay sáu vòng trên không phận đá Vành Khăn, chụp hình được các công trình xây cất và cả các chiến hạm của hải quân Trung Quốc và ông tuyên bố: “Trung Quốc đang xây cất những công sự, tôi còn thấy được ánh chớp của những đèn hàn... Những điều chúng tôi thấy được vừa có tính cách báo động vừa bi thảm. Trung Quốc đã đưa các chiến hạm từ ngàn dặm xa xôi đi cướp đất của một nước láng giềng”. Ông tiếp: “Chúng ta không thể làm ngơ hành động côn đồ của Trung cộng trong quần đảo Trường Sa. Sự hiện diện quân sự của Trung Quốc không chỉ là mối quan tâm của Phi Luật Tân, đó cũng là mối quan tâm của Hoa Kỳ và các nước dân chủ trên thế giới”. Ông cũng lên án chánh quyền Clinton đã coi nhẹ biến cố Vành Khăn. Bằng một ngôn ngữ ngoại giao, ông hứa là sẽ vận động quốc hội Mỹ hỗ trợ gia tăng tiềm lực hải quân Phi... “Tôi đã biếu tổng thống Estrada một chai rượu Tequilla bự. Tôi hy vọng tiếp theo đó sẽ là một tuần dương hạm”.

Dana Rohrabacher tuy không phải là một tiếng nói thế lực trong giới lập pháp Mỹ, nhưng có còn hơn không và đó cũng là một dấu hiệu an ủi cho Phi.


Vài dấu hiệu chuyển động

Giữa cuộc tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa đang diễn ra trên Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nguy cơ đối đầu nhất. Sau khi mất toàn quần đảo Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa, ngoài những cuộc đấu khẩu ngoại giao, phía Việt Nam đã có những bước ứng xử nào:

Theo tin của Thông tấn Kyodo 19-09-98, Việt Nam mới đây đã hoàn tất việc xây dựng và trùng tu nhiều cơ sở “dân sự” trên đá san hô Tây (West Reef) trong quần đảo Trường Sa... có cả sân bay trực thăng với tổn phí lên tới 4 triệu đôla, là những công trình xây dựng có tính cách lâu dài.
Tài liệu Combat Fleets of the World 98-99, Naval Institute Press, ghi nhận một số chiến hạm của hải quân Việt Nam đã được đổi tên thành Biển Đông hay Trường Sa (BD 621, 622, 105, TS 01) trong đặc nhiệm bảo vệ Trường Sa.
Tờ Orange County Register 13-12-98, trong phần châu Á Thái Bình Dương loan tin: có hai con đường của thành phố Sài Gòn được đặt tên là Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo báo Tuổi Trẻ trong nước 06-02-99, chánh phủ Việt Nam đang ráo riết buộc toàn thể cán bộ học tập nâng cao kiến thức sử học về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cùng tổ chức hội nghị khoa học về lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa. Nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, địa lý địa danh, đặc điểm khí hậu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của các đảo và vùng biển liên hệ đã được công bố... Thành phần tham dự hội nghị gồm các nhà khoa học thuộc nhiều lãnh vực từ các đại học và các viện nghiên cứu, đại diện các bộ Ngoại giao, Quốc phòng, Ủy ban Biên giới, các ban Trung ương Đảng, Văn phòng Chánh phủ...
Trên tấm bản đồ Việt Nam và Biển Đông (chứ không phải Nam Hải - South China Sea) với các địa danh thuần Việt của Tổng cục Địa chính xuất bản năm 1997 có ghi những chi tiết: (1) Quần đảo Hoàng Sa (hiện bị Trung Quốc chiếm đóng) là thuộc thành phố Đà Nẵng Quảng Nam, cách Đà Nẵng 390km, (2) Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa Nha Trang (nguyên thuộc tỉnh Phước Tuy thời Việt Nam Cộng hòa), cách Sài Gòn 670km.
Trên các tờ báo tiếng Việt xuất bản ở hải ngoại cũng thường xuyên có các tin và bài bình luận liên quan tới Hoàng Sa Trường Sa và chủ quyền trên Biển Đông.
Mùa hè 98, một cuộc hội thảo chuyên đề về Biển Đông của một số trí thức và chuyên gia Việt Nam hải ngoại được tổ chức ở New York với phần đúc kết sẽ được ấn hành như một tài liệu tham khảo nội bộ.
Trên Internet gần đây xuất hiện một website mang tên “Paracels Forum”, thiết trí như một diễn đàn chung cho những ai quan tâm tới vấn đề Hoàng Sa Trường Sa, địa chỉ: http://members.tripod.com/~Paracels/.
Tờ Đi Tới ở Montréal Canada thực hiện một số báo chuyên đề (tiếp sau Tập san Sử Địa, đặc khảo về Hoàng Sa Trường Sa 1975) cập nhật hóa các vấn đề liên quan tới Biển Đông với hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa trong bối cảnh mối bang giao lịch sử giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.

Vành Khăn, con bài Domino của Trường Sa

Vào những thập niên 50-60, giữa cuộc chiến tranh lạnh, người Mỹ rất tin vào thuyết Domino về mối liên hệ của toàn vùng được hình dung bằng một hàng những con bài Domino đứng cạnh nhau, nếu con bài đầu tiên bị đổ thì sẽ đè lên con bài thứ hai và theo phản ứng dây chuyền cứ thế cả chuỗi bị sụp đổ.

Cuộc chiến tranh Việt Nam với bao nhiêu xương máu và tốn kém là một điển hình của thuyết Domino ấy.

Sau giai đoạn sụp đổ của khối Liên Xô, thập niên 90 được coi là thời kỳ “sau chiến tranh lạnh” đối với thế giới. Nhưng tại châu Á lại đang manh nha một cuộc “chiến tranh nóng” do sự bành trướng rất hung hãn của Trung Quốc.

Sau khi đã chiếm trọn Hoàng Sa và một số đảo của Trường Sa, mặc nhiên Trung Quốc đặt Việt Nam và các nước Đông Nam Á “trước một sự đã rồi”. Nhưng với tình hình hiện nay Trung Quốc có nuốt trọn được quần đảo Trường Sa hay không thì đá Vành Khăn là biểu tượng của con bài Domino đầu tiên ấy. Do đó Vành Khăn không chỉ là mục tiêu tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc mà phải coi đó là thách đố đối với toàn thể các quốc gia Đông Nam Á. Bước tới, nếu Trung Quốc dứt khoát chiếm được đá Vành Khăn thì tất cả những đơn vị còn lại trong một chuỗi những đảo, đá, cồn và bãi của Trường Sa có tên hoặc không tên sẽ lần lượt rơi vào tay Trung Quốc, dĩ nhiên với tất cả hậu quả và hệ lụy của nó.


Lý lẽ của kẻ mạnh

Hơn 60 năm trước, vấn đề Hoàng Sa Trường Sa đã được báo chí Việt Nam dự báo và nhắc tới rất sớm: báo Nam Phong của Phạm Quỳnh (Hà Nội, NP 172, 05-1932) đã viết: “Vấn đề cương giới Hoàng Sa Trường Sa sẽ được giải quyết bằng gươm súng”. Sáu năm sau trên báo Ngày Nay (Hà Nội 24-07-1938) của nhóm Tự lực Văn đoàn, Hoàng Đạo lúc đó mới ở cái tuổi ngoài 30 đã viết trong mục “Người và Việc” như sau: “Lấy lý lẽ mới cũ ra mà nói thì Hoàng Sa Trường Sa là của An Nam. Nhưng ở trường quốc tế người ta không ai theo luật mới cũ cả. Nó chỉ là của sức mạnh”. Những dòng chữ ấy cho đến nay hoàn toàn đúng đối với Trung Quốc với lẽ của kẻ mạnh.
Sức mạnh thượng phong về hải, lục và không quân của Hoa lục là không thể phủ nhận. Nếu vạn bất đắc dĩ xảy ra một cuộc chiến tranh vùng trên Biển Đông, bất cứ cuộc đụng độ quân sự nào, thì sự toàn thắng đương nhiên ở về phía Bắc Kinh.


Tư thế của bầy trâu chống cọp

Cuộc khủng hoảng kinh tế vùng mới đây đã làm suy yếu hẳn thế liên minh của các quốc gia Đông Nam Á mà biểu hiện rõ nhất là trong cuộc họp thượng đỉnh ASEAN vừa qua tại Hà Nội, nguyên thủ các nước kể cả Việt Nam và Phi đều né tránh đề cập tới vấn đề gai góc này, nại lý do “còn nhiều vấn đề lớn hơn cần giải quyết, đặc biệt là lãnh vực kinh tế”. Trước con mãnh hổ Trung Quốc, những con đà điểu Đông Nam Á thấy hiểm nguy chỉ biết có rúc đầu xuống cát.

Ai cũng biết các đảo cho dù nhỏ hẹp tới đâu, nhưng khi thuộc về một quốc gia nào, người ta sẽ viện dẫn theo Luật biển về vùng kinh tế đặc quyền 200 hải lý để đòi hưởng trọn các nguồn tài nguyên về hải sản và các mỏ dầu khí trong đó, chưa kể tới giá trị chiến lược của các căn cứ quân sự ấy.

Cho dù đang là một nước xuất cảng dầu nhưng Trung Quốc sẽ phải nhập cảng dầu vào đầu thế kỷ tới nếu không tìm ra được các mỏ dầu mới mà Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa có hy vọng là lời giải đáp.

Giả thiết nếu quần đảo Trường Sa hoàn toàn rơi vào tay Trung Quốc, điều này có nghĩa là Trung Quốc còn chiếm hữu luôn một phần mỏ dầu rất phong phú của Nam Dương quanh đảo Natuna - nơi đã có ký kết một hợp đồng lên tới 30 tỉ đôla giữa Công ty Dầu khí Mỹ Exxon và Djakarta. Hiển nhiên đây là một đụng chạm trực tiếp tới quyền lợi thiết thân của tư bản Mỹ và chắc chắn không dễ dàng gì Mỹ để rơi vào tay Trung Quốc. Và Biển Đông không thể không dậy sóng nếu không đạt được một hợp tác phát triển và phân chia tài nguyên giữa các quốc gia lớn nhỏ trong vùng trên phương diện khai thác dầu khí, đánh cá và hải hành.

Trước âm mưu chia để trị, Trung Quốc sẽ áp đặt những điều kiện thật khắt khe trong các cuộc thương thảo song phương như giữa Bắc Kinh và Hà Nội hay Bắc Kinh và Manila...

Trung Quốc sẽ dễ dàng bẻ gẫy từng chiếc đũa nhưng với cả bó đũa thì không. Cọp dữ Hoa lục sẽ không dám xông vào giữa bày trâu hợp quần, nhưng sẽ giương móng vuốt chụp lấy từng con đứng riêng lẻ và cũng sẽ chẳng tha cả con trâu khỏe đầu đàn.

Chỉ có một đường sống duy nhất cho các nước Đông Nam Á là đoàn kết trong bình đẳng và tin cậy để có hành động phối hợp tạo thành một thế trận chung về chánh trị ngoại giao, kinh tế và quân sự, đủ sức đương đầu với con mãnh hổ Trung Quốc .


Tài liệu tham khảo

“South China Sea”, Tracy Dahlby, National Geographic 12-98, Vol. 194, No. 6
“Tis the Season”, Tiglao R., Sherry. A., Thayer N., FEER, 12-24-98
“Going Ballistic”, Wolf J., FEER, 02-18-99 (
Reuters, Beijing 02-25-99, “China Rejects Manila Report of Spratlys Buildup”
“Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa”, Tập san Sử Địa 29, 01.03-75, Nxb Khai Trí - Văn Nghệ
“Địa lý Biển Đông”, Vũ Hữu San, UBBVSVTLTVN, 05-95
Trăm Việt trên vùng định mệnh, Phạm Việt Châu, Nxb North Falls House 1997
Nguồn: Tạp chí Thế Kỷ 21, số 121, 05-1999
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:51 pm

Lê Phú Khải
Thư ngỏ gửi 10.000 đồng nghiệp về vụ Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua quyết định thành lập huyện Tam Sa

Các đồng nghiệp quí mến của tôi!

Bọn bá quyền Trung Quốc lại một lần nữa giở trò “cá lớn nuốt cá bé”, tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của chúng. Việt Nam bé hơn Trung Quốc, nhưng thế giới văn minh lớn hơn Trung Quốc rất nhiều. Cả loài người tiến bộ đã và đang đứng về phía Việt Nam để chặt đứt những cái vòi bạch tuộc Trung Quốc.

Là nhà báo, các bạn và tôi là tiếng nói lương tri của dân tộc. Nghề của chúng ta là suốt đời nói lên sự thật. Không lẽ chúng ta lại im lặng trước một sự kiện vô cùng trọng đại là núi sông bờ cõi của cha ông đã được gìn giữ bằng máu xương bao đời đang bị kẻ thù ngang nhiên xâm lấn.

Vì lẽ đó, tôi kêu gọi các bạn đồng nghiệp quí mến của tôi lên tiếng bằng bất kỳ hình thức nào để phản đối bá quyền Trung Quốc, để bảo vệ Tổ quốc. Để chúng tra không phụ lòng tin của đồng bào các giới từng gửi gắm vào chúng ta.

Mỗi tế bào trong cơ thể tôi đang cháy rực căm thù bọn bá quyền Trung Quốc. Tổ quốc hay là chết!

Chúc các đồng nghiệp yêu quí của tôi sức khoẻ để bảo vệ Tổ quốc.

Sài Gòn 17/12/2007

© 2007 talawas
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:52 pm

Nguyễn Hữu Liêm
Không được phỉ báng lòng yêu nước
Last edited by bauda on Sun Dec 30, 2007 6:28 am, edited 1 time in total.
Reason: Xin đừng bàn về chính trị và những đề tài dễ gây hiềm khích.
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:53 pm

Trần Vũ

Sát Thát!

Kỵ binh Mông Cổ
Ngày 26 tháng 10 năm 1284 khi vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên đất Đại Việt tiến về bến Vạn Kiếp, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc kẻ thù mạnh đến như vậy. Phía bắc, Trần Bình Trọng thảm bại trước kỵ binh của Ô Mã Nhi, bị bắt sống, tuyến phòng ngự Thăng Long tan vỡ. Phía nam, thủy quân của Toa Đô chiếm Nghệ An lập thế gọng kềm, vua Trần phải bỏ kinh sư chạy về phủ Thiên Trường. Định mệnh của dân tộc đã có thể chấm dứt ở cuối thế kỷ 13.

Nhưng chưa bao giờ trong những ngày nguy khốn cùng cực này, quyết tâm giữ đất của dân tộc cao đến vậy; tất cả nam nữ cùng thích lên tay hai chữ "Sát Thát".

"Sát Thát" đã được xâm lên da thịt của người Việt, để thấm vào máu Việt, để di truyền cho con cháu đời sau. Di truyền hào khí lẫm liệt của cả một dân tộc quyết không chịu nhục mà hôm nay, chúng ta, hãy còn tìm thấy trên trang sử cũ: "Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc".

Bảy thế kỷ sau, dân tộc này hãy còn mang trong mình khí phách của "Đoạt sáo Chương Dương độ":


Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu

Bảy thế kỷ sau, di duệ của Trần Nguyên Hãn bị Bắc Kinh chiếm đất, với đầy miệt thị khiêu khích. Bảy thế kỷ sau, Hồ Cẩm Đào thực hiện di chúc của Hốt Tất Liệt, Mã Viện, Trương Phụ, Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, một cách dễ dàng không kèn trống. Chưa có đế quốc nào đi chiếm đất lân bang dễ dàng sung sướng như đế quốc Trung Hoa đầu thế kỷ 21. Vừa chiếm, vừa khinh, vừa được Chế Mân ôm hôn thắm thiết.

Bảy thế kỷ sau, tình thế đã khác. Nếu bối cảnh khác, lòng can đảm của dân tộc này không khác. Lòng can đảm mà môn võ thuật truyền thống của dân tộc còn lưu trữ: thế đánh ngoạn mục của Việt Võ Đạo tung người quặp đối thủ quật xuống đã phát xuất trong những ngày kỵ binh Mông Cổ tràn xuống Thái Nguyên, càn xuống Vĩnh Phú. Ít ngựa, thiếu phiêu kỵ, tổ tiên đã dùng dôi chân nông dân chạy thật nhanh, áp sát lườn ngựa, hất tung mình lấy chân quặp cổ kỵ mã Mông Cổ giựt chúi xuống đất rồi kết liễu bằng dao găm. Bảy thế kỷ sau, mới hôm qua, lòng can đảm hãy còn đó, khi những người lính của Trung đoàn Thủ đô ôm bom ba càng lao vào chiến xa Sherman. Mới đêm qua, các Trung đoàn Sông Lô, Tây Bắc, Tu Vũ, Nho Quan, đã đạp lên trùng trùng thép gai làm nên chiến thắng chấn động Điện Biên Phủ.

Chính sự hy sinh can đảm của dân tộc đã đánh tan Bán Lữ đoàn Lê dương 13 [1] , đơn vị lừng lẫy nhất của quân đội Pháp, đơn vị đã tử thủ tại Bir Hacheim [2] trước Xa đoàn châu Phi [3] Đức Quốc xã của thống chế Erwin Rommel. Chỉ trong 5 tiếng đồng hồ, từ 5 giờ chiều đến 10 giờ tối của ngày 13 tháng 3-1954, Tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn Lê dương 13 cáo chung trên đồi Béatrice. Nếu Toa Đô chết ở Tây Kết, Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn trong trận đồn Ngọc Hồi, tư lệnh pháo binh Charles Piroth tự sát sau trận đồi Gabrielle.

Bảy thế kỷ sau Thoát Hoan, tổ tiên Nguyên Mông của Hồ Cẩm Đào, lòng ái quốc của dân tộc Việt vẫn nguyên vẹn.

Đầu thế kỷ 21, tình thế đã khác. Nếu Trung Hoa vĩ đại của Hồ Cẩm Đào chưa thực sự hùng mạnh như đế chế Mông Cổ, Đại Việt đã suy yếu. Quốc gia Việt Nam hôm nay thiếu sự đồng thuận dân tộc trong mọi lĩnh vực. Khác với triều Trần vô cùng hợp nhất từ lòng dân đến quốc giáo, từ làng mạc cho đến tận trong cung điện; vương quốc hậu Đại Việt ngày nay bị phân hoá. Nguyên nhân có thể tìm thấy trong hai nội chiến đẫm máu Trịnh-Nguyễn và Nam-Bắc, còn tìm thấy trong cả định hướng xã hội chủ nghĩa không hợp lòng dân. Bên cạnh sự phân hoá, phát lộ một yếu kém bản năng: Khả năng suy nghĩ đại dương không được hệ thống hoá, trống vắng, hay chưa hề có.

Chưa bao giờ như hôm nay, đứng trước biển, dân tộc Việt chứng kiến sự bất lực rõ rệt của mình trước đại dương. Nỗi bất hạnh to lớn ngang bằng sự bất lực vĩ đại trường kỳ trước dinh thái thú Tô Định trên đường Minh Khai. Khoảng cách vài trăm thước dài bằng khoảng cách nhiều trăm hải lý chia cách quần đảo Hoàng Sa. Sẽ không bao giờ dân Việt bơi đến. Sẽ không thể nào dân Việt chìa tay cho lính Trung Quốc trông thấy hai chữ "Sát Thát" xâm chín đỏ da thịt mình. Đại dương đã chiến thắng lòng can đảm.

Hậu quả của 40 thế kỷ văn hiến u tối không suy nghĩ biển? Hậu quả của sợ hãi phiêu lưu đến chân trời góc bễ? Sợ hãi thủy quái? Sợ hãi những điều chưa ghi chép trong sách Thánh Hiền? Khó phản biện, chỉ có thể thông cảm, với một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng lúa, tình yêu đất cát, quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, đã mãnh liệt hơn mặt biển không cho lúa. Chính tình cảm gắn bó quê mẹ đã khiến Đại Việt không có hạm đội viễn chinh, không phát triển ngành hàng hải. Nhưng nếu chưa biết cách chế ngự đại dương, chính tình yêu đất cát dữ dằn này đã giúp dân Việt bảo tồn lãnh thổ trước khối lượng người khủng khiếp của tộc Hán. Có thể viết, cũng chính Trung Quốc khiến dân tộc Việt trước thế kỷ 19 với xã hội làng mạc không thể có ngành hàng hải, vượt trùng dương lấy ai cầy cấy, lấy ai giữ ruộng vườn khi kẻ thù phương Bắc rình rập từng quý, khi kinh nghiệm máu xương khắc ghi: để chiến thắng Trung Hoa trong mỗi trận chiến, tổ quốc phải dốc toàn lực, toàn sức, với những mất mát hy sinh tận gốc rễ mà sau mỗi chiến thắng, nếu chiến thắng, còn phải triều cống. Đi biển sáu tháng, một năm, hai năm, như các tiểu quốc Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Na Uy vượt khỏi tầm tay với của những nông phu nghèo, vượt khỏi ước mơ của những làng chài mong ngóng chồng con đem về một lưới cá.

Dân tộc này nghèo, nhưng sẵn sàng chết để giữ đất. Trung Hoa với tất cả những triết lý nhân sinh của Khổng, Lão, Trang đã không muốn hiểu. Riêng một mình Hồ Cẩm Đào thấu hiểu: “tình hữu nghị Việt - Trung đời đời bền vững”.

Hôm nay không ai trách cứ các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã không xây dựng một hạm đội Thái Bình Dương, như Minh trị Thiên hoàng đã hiểu ra thủy chiến quyết định sinh mệnh của Nhật Bản. Không ai trách tổ tiên, trong những ngày chiến thắng rực rỡ của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, đã không chiếm lấy đảo Hải Nam mà vị trí chiến lược khống chế toàn vịnh Bắc Bộ. Hôm nay, những sinh viên thanh niên biểu tình trước dinh thái thú Tô Định, trong ngày phẫn nộ 9 tháng 12-2007, đã trách: Vì sao quốc gia phải dâng hai châu Ô, châu Lý? Mà dâng khuất tất? Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, Hồ Cẩm Đào đã có thể khống chế vịnh Cam Ranh. Cánh cửa mở ra Thái Bình Dương vừa bị khóa.

Có phải vì vậy hay không mà đại diện Robert Lucius của hải quân Hoa Kỳ, tại Hà Nội, đã trả lời BBC lạt lẽo: “Hoa Kỳ chưa hề tiếp cận Việt Nam về vấn đề cảng Cam Ranh từ sau 1975, và cũng có đủ các cơ sở trong vùng nên không có nhu cầu sử dụng hải cảng này”. Trong câu nói, có vị chua ở đầu lưỡi. Có phải vì sự hiện diện của không hải lục Trung Hoa trên đảo Trường Sa đã triệt tiêu vị thế của Cam Ranh? Ở chính giữa thời điểm căng thẳng Việt - Trung, 24 giờ ngay sau khi sinh viên xuống đường, ba ngày trước khi đô đốc tổng tư lệnh Timothy Keating viếng thăm, từ chối khéo của Robert Lucius mang ý nghĩa trầm trọng gần như có thỏa thuận ngấm ngầm giữa các đế quốc.

Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc đau đớn khắp mình mẩy, nỗi đau tím bầm da thịt mất đất, mất biển. Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc vụt khám phá mình đơn thương độc mã, trơ trọi trước một tỷ người Hán. Khác chiến tranh biên giới 1979, Tổng Bí thư Lê Duẩn, sau phát súng lệnh đầu tiên, đã có thể ký hiệp ước quân sự hỗ tương Nga - Việt làm giảm áp lực phương Bắc. Hôm nay, chính phủ Việt Nam khó khăn tìm ra một hiệp ước quân sự để ký kết. Mà không thể ký kết, khi chính sách đối ngoại “Làm bạn với tất cả thế giới” không cho phép những liên minh quân sự với phía này hay phía khác. Đã đến buổi sáng, dân chúng thức giấc, kinh hoảng khám phá “Làm bạn với tất cả thế giới” là một thực tế trống rỗng, thiếu hậu thuẫn. Kẻ thù đã xuất hiện trùng trùng trên mặt biển. Trước hình ảnh Trương Phụ kéo lê thanh long đao, của Quan Vân Trường để lại, đứng trên đỉnh Hoá Châu chỉ xuống thung lũng mưa gió sấm sét, quát: Đất này là của Mã Viện; đại diện Robert Lucius, ngay giữa lòng thủ đô Thăng Long, đã nhã nhặn từ chối: Hoa Kỳ không cần bạn, chỉ cần đồng minh.

Trong buổi sáng tím tái, ướt đầm vì sóng biển, sinh viên Việt Nam muốn theo gương Trần Quốc Toản, giương lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân”, thậm chí sẵn sàng “Phá cường địch báo Hồng ân”, nhưng các cấm vệ lại cấm ngặt không cho phép, rồi bắt giải tán. Sao Đoàn Thanh niên Cộng sản tuổi trẻ Hồ Chí Minh lại thiếu ý chí, thua kém cả Đoàn Thanh niên Quốc xã tuổi trẻ Adolf Hitler đã chiến đấu trên từng đường phố Bá Linh, cho đến phút cuối cùng, cho đến viên đạn chót cùng trước Hồng quân Xô-viết, ngay cả khi không có chính nghĩa? Chúng ta tràn đầy muôn triệu lý do phải kháng cự, nhưng triều đình đã im lặng. Trong buổi sáng có những lượn sóng sắc như lam, nhởn nhơ chảy về từ biển Đông, làm chảy máu trái tim Việt, tất cả đã tuyệt vọng trông chờ một ánh mắt. Cái quắc mắt của Trần Thủ Độ khi trả lời vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Cái quắc mắt đã cứu sống sinh mệnh Đại Việt, đã khiến vua Trần phải hiểu, không phải đầu thái sư, mà chính là đầu thiên tử sẽ rơi xuống đất trước tiên nếu quy hàng. Nhưng tất cả các quan đều đeo kính mát, khiến không ai có thể trông thấy ánh mắt của những điện tiền chỉ huy sứ.

Đơn thương độc mã và triều đình im tiếng, nên dân chúng phải tự đi tìm kế sách giữ nước. Karl von Clausewitz, ở chương thứ 4, tập 8, của cẩm nang Chiến tranh, phân tích:


“… Đứng trước trường hợp hai quốc gia tranh giành đất, hai bên lâm chiến đều cần thời gian. Câu hỏi đặt ra, ai trong hai phía, với tình trạng quốc gia riêng biệt, về lâu dài, sẽ thuận lợi? Cân nhắc tính chất của từng bên, kết luận luôn đưa đến kẻ yếu nhất sẽ thắng thế. Không phải sức mạnh, mà yếu tố tâm lý. Chính lòng tham, sự quan ngại, tranh chấp, tính toán, lẫn sự hỗ trợ trái ngược của những quốc gia đứng ngoài sẽ làm rạn nứt liên minh giữa chính họ với kẻ đang thắng thế. Càng dài lâu, kẻ thua thiệt càng nhiều cơ hội. Mặt khác, để khai thác thành quả của chiến thắng đầu tiên, phe đang chiếm ưu thế phải tổn hao rất nhiều sức lực. Không chỉ để chiếm đóng mà để duy trì sự chiếm đóng. Nếu tài nguyên của tỉnh lỵ tóm thâu, không đủ trang trải phí tổn, sẽ trở thành một sức nặng không thể gánh. Yếu tố thời gian, như vậy, có thể giúp lật ngược tình thế.

… Ngược lại, nếu những tỉnh lỵ vừa chiếm đoạt đủ quan trọng, và bao gộp những vùng chiến lược sống còn, cho lục địa hay những vùng không thể đụng đến, sự chiếm đóng sẽ lan nhanh như chứng ung thư. Kẻ lấn chiếm sẽ thu lợi nhuận nhiều hơn thất thu. Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược. Thời gian trở thành yếu tố hỗ trợ kẻ đi xâm chiếm, tiếp tay cho đến chừng nào kẻ lấn chiếm không bị phản công. Trường hợp này, một đảo ngược tình thế khó khả thi; vì đến mức này, sự đảo ngược khó có giá trị, vì cốt lõi của chiến tranh đã được thực hiện, những hiểm nguy cao nhất kẻ xâm chiếm đã vượt qua. Trong một chữ, đối phương đã quỵ gối.”

(De la guerre, Karl Von Clausewitz, tập VIII, chương IV) [4]

Phân tích của Clausewitz năm 1830 làm dân Việt thêm tuyệt vọng, vì quốc gia Việt Nam đang rơi vào tình trạng "Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược". Trong cẩm nang Chiến tranh, Clausewitz còn đòi hỏi một yếu tố tiên quyết khác: “Tính hợp nhất chính trị. Thiếu sự hợp nhất này, mọi chiến thuật, chiến lược đều vô vọng”. Chính đây là nhược điểm lớn nhất của đất nước. Vừa làm bạn với kẻ thù, vừa chia sẻ ý thức hệ, vừa phải phòng chống, khiến tất cả các sách lược không thể nhất quán.

Một tuần lễ sau Ngày Phẫn Uất, dân Việt ra đường ngỡ ngàng trông thấy trên các sạp báo, bản tin của báo Tuổi trẻ: Phát hiện âm mưu kích động tuần hành, biểu tình… Những hậu duệ của Trần Hưng Đạo lặng lẽ trở về nhà, lặng lẽ đội mũ bảo hiểm theo quy định, vì đây là biện pháp phòng chống bá quyền Trung Quốc duy nhất của đất nước.

Sẽ như Clausewitz tiên đoán, quốc gia rồi quỵ gối trở lại làm An Nam Giao Chỉ Quận? Toàn dân tộc trông cậy vào những cuộc tuần hành của tuổi trẻ, giữ cho vết xâm hai chữ “Sát Thát” của tổ tiên không biến mất, với hy vọng, giới hữu trách hiểu ra: Đảng cầm quyền sẽ mất tính chính danh nếu không bảo vệ lãnh thổ.

15 tháng 12-2007

© 2007 talawas
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 10:57 pm

Lê Tuấn Huy
Hoàng Sa và Trường Sa - Trí thức lớn, các vị đang ở đâu?

1.

Ngày 09.12.2007. Buổi sáng, hai cuộc biểu tình tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh phản đối Trung Quốc hợp thức hóa chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Buổi tối, 10.01h, Thông tấn xã Việt Nam phát phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao. Ngay ở đoạn đầu của bản tin: Trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước việc sáng 9/12, một số người đã tụ tập trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng khẳng định: “Đây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam. Khi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này”.

Ngày 11.12.2007, ý kiến của phía Trung Quốc được đưa ra từ Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao. Đoạn sau: Chúng tôi quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây tại Việt Nam. Diễn biến đó sẽ gây phương hại cho quan hệ thân thiện giữa Trung quốc và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng chính phủ Việt Nam sẽ có thái độ trách nhiệm cùng với những biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng này phát triển thêm, ngăn chặn việc các quan hệ song phương đang bị gây phương hại.

Chỉ cần một cái nhìn “tầm thường” nhất cũng có thể thấy ngay từ hai phát biểu này, rằng:

Phía Việt Nam cho thấy tính vô can của chính quyền trong sự việc và bày tỏ thái độ chính thức là “bà con chấm dứt việc làm này”.
Trung Quốc “yêu cầu” Việt Nam không để tái diễn việc biểu tình chống họ, ngược lại sẽ là vô trách nhiệm và có hậu quả xấu đến “các quan hệ” (kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao…).
Trong khi Việt Nam vội vã, lời lẽ nặng tính phân trần, và không hề có ý gì - dù chỉ bóng gió - về những hệ quả do hành động mà Trung Quốc khơi mào, thì phía Trung Quốc từ từ nhưng đỉnh đạc đi thẳng vào vấn đề với thái độ bề trên.
Phát biểu từ người của phía Trung Quốc là “can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của nước khác” và gây tức giận [1] .

2.

Cho dù lịch sử đương đại với những vết nhơ không thể gột rửa được của Cách mạng Văn hóa và Thiên An Môn năm 1989, Trung Quốc vẫn là một trong những chiếc nôi của nền văn minh, lịch sử văn hóa và tri thức của họ để lại dấu ấn khắp nơi trên thế giới, đáng để chúng ta tiếp thu như một phần tinh hoa của loài người. Việc bứt phá ra khỏi ảnh hưởng của Liên Xô để tiến hành cải cách rất sớm tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là điều đáng tôn vinh. Thành tựu vượt bậc của họ, đến độ gây choáng cho thế giới, là điều thật sự đáng ngưỡng mộ và học tập…

Với Việt Nam, cho dù có bị đô hộ 1.000 năm, cho dù có chuyện “tập đoàn Trung Nam Hải” đã nuôi dưỡng “bè lũ Pol Pot, Ieng Sary” gây ra chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1977 và trực tiếp xua quân tràn sang Việt Nam trong chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 [2] , cho dù có sự kiện Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988…, thì chung sống hòa bình và thân thiện với người bạn phía bắc vẫn luôn là một nguyện vọng.

Vào thời điểm Trung Quốc nổ súng chiếm một phần Trường Sa, giới quan sát cho rằng với hệ thống sân bay dọc suốt tuyến duyên hải được xây dựng từ chế độ cũ, hơn Trung Quốc cả về hậu cần lẫn lực lượng tại chỗ, không quân Việt Nam khó mà không có trận tập kích để lấy lại lãnh thổ vì nếu không, không những mất hẳn đảo mà còn chịu một lưỡi dao dài (từ Hoàng Sa đến Trường Sa) kê sát ngay bên sườn phía đông. Trận đánh đó đã không xảy ra.

Với ưu thế (có thể là giả định) như vậy, còn hiện diện cả Liên Xô và phe Đông Âu, nhưng giải pháp “ngoại giao” đã được lãnh đạo Việt Nam chọn lựa, thì nay, sau gần hai mươi năm, khoảng cách sức mạnh về mọi mặt giữa hai quốc gia đã nới rộng ra rất nhiều, ngoại giao - điều mà cả hai nước luôn nói đến, nếu có xảy ra tranh chấp - đương nhiên là phương cách đúng đắn!

Có lẽ chúng ta nghe đến thuộc những câu từ đại loại như: hai bên tăng cường đối thoại và đàm phán để tìm giải pháp “mà các bên đều có thể chấp nhận được”… Điều này cũng chính xác.

Thế nhưng vấn đề không phải là câu chữ ngoại giao mà là chiến lược ngoại giao và hiệu quả ngoại giao. Hiệu quả ra sao sẽ cho thấy chiến lược đó thực chất như thế nào.


3.

Trên biển, tôi cũng đồng ý rằng Việt Nam đã hoàn toàn phá sản trong chiến lược sử dụng ASEAN như một đối trọng kiềm chế Trung Quốc. Quy tắc Ứng xử biển Đông (2002) mà Trung Quốc là một bên tham gia, từng được tôn vinh như một trong những thành quả quan trọng nhất của đường lối đối ngoại Việt Nam sau bao năm kiên trì vận động, đã nhanh chóng đi đến chỗ vô hiệu.

Động thái chuyển hướng gần đây của Việt Nam nhằm tìm một đối trọng mới với Trung Quốc - đương nhiên không thể ai khác ngoài Hoa Kỳ - cũng chưa hề mang lại kết quả. Thậm chí, việc ngập ngừng hay cản trở nào đó trong quan hệ này, việc chưa lường hết vị thế của mình và của người, đang tiếp tục tạo những lỗ hổng hết sức nguy hiểm. Trong bối cảnh này, một mặt Việt Nam đang tạo điều kiện cho người khác và cho bản thân trong việc mê hoặc… chính mình về một sự phù hợp nào đó của đường lối nửa vời này, khi Bắc Kinh sẵn sàng cực kỳ thân thiện để Việt Nam an tâm mà không thân thiện hơn nữa với Hoa Kỳ. Mặt khác, nó cũng trao cho người bạn phương Bắc cơ hội để chớp lấy tức thì bất kỳ thời cơ khả dĩ nào cho những hành động mới trên biển. Chỉ một thời gian ngắn vừa qua thôi, ta đã thấy rõ rằng vào lúc cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều nói nhiều đến quan hệ chiến lược thì cũng lập tức quan hệ Việt - Trung trở nên hết sức nồng ấm, sóng yên biển lặng cho dù có thể nói qua nói lại (nhưng hoàn toàn dừng lại ở nói). Khi Việt Nam và Hoa Kỳ lạnh nhạt nhau - có lẽ đã gần đến mức thấp nhất kể từ khi các quan hệ mới được hai bên chú trọng - vì chuyện dân chủ và nhân quyền, thì cũng là lúc Trung Quốc liên tiếp tung ra những động thái leo thang mới: tập trận lớn tại Hoàng Sa bằng hạm đội mạnh nhất của họ, cơ quan hành chính cao nhất ra quyết định hợp thức hoá chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Liên minh quân sự với Hoa Kỳ để đối lập lại Trung Quốc là điều sai lầm, nhưng tiếp tục bài Hoa Kỳ về mặt lịch sử và văn hóa chính trị, đồng thời che giấu sự thật trong lịch sử đương đại của quan hệ Việt - Trung và tôn vinh văn hóa Khổng-cộng [3] (dưới danh nghĩa giá trị châu Á) thì lại càng sai lầm hơn.

Vả chăng thì Việt Nam cũng không hề có đường lối liên minh với bất kỳ ai chống Trung Quốc, mà khả dĩ chỉ muốn có một đối trọng. Nhưng chủ trương nước đôi, một mặt muốn có một đồng minh - hiểu theo nghĩa “mềm” nhất - có thể làm lá chắn phòng vệ (dù có thể là từ xa) cả trên bình diện quân sự và ngoại giao; mặt khác lại dùng ngay chính đối tượng cần phải phòng bị đó như một đồng minh thể chế, làm lá chắn chính trị và tư tưởng chống lại - giá như cũng chỉ “mềm” nhất - chính cái lá chắn quân sự và ngoại giao đó; đã khiến chiến lược này cũng trở nên bất khả thi.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà đại diện hải quân và thủy quân lục chiến của Mỹ tại Hà Nội Robert Lucius nói trước chuyến thăm đến Việt Nam của Đô đốc Timothy Keating, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (12 - 13.12.2007), rằng Mỹ đã có đủ cơ sở trong vùng nên không có nhu cầu sử dụng cảng Cam Ranh, và “nguyên trạng” hiện nay trong vùng về hải quân phù hợp với tất cả các bên, đồng thời không bên nào có ý định thay đổi điều này.

Tất nhiên, ta hiểu rằng phát biểu này có thể chỉ là một chỉ dấu công khai để Việt Nam nhận thức lại vị thế thực của mình, nhưng xin mạn phép được nói ngoài lề, với một giả định hoàn toàn bất khả, là nếu tôi là người làm chiến lược tại Bắc Kinh, ngay sau “đèn xanh” vừa rồi bật lên, các động thái quân sự mới sẽ được triển khai tức thì! Cũng xin nói ngoài lề một ý nữa, phát biểu này chưa hẳn là sự thật 100% nhưng sự tự tin đó của người Mỹ là có cơ sở. Không kể những đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, xin các nhà chiến lược Việt Nam lưu ý rằng ngay chính tại Trường Sa đã có sự hiện diện không nhẹ ký của Đài Loan. Và chắc rằng chính quyền của vùng lãnh thổ này sẽ không từ chối yêu cầu liên minh quân sự - nếu có - từ phía đối tác vẫn bảo vệ cho họ nơi đường ranh mỏng manh của eo biển Đài Loan.

Như đã nói, không thể chủ trương nghiêng hẳn về Hoa Kỳ chống Trung Quốc, nhưng chiến lược đối trọng theo kiểu hiện nay, với việc triển khai đầy tính thiên vị cho một bên và thù nghịch cho bên kia về mặt văn hóa chính trị đã, đang và sẽ khiến đất nước này tiếp tục phải trả giá.

Xin phép đưa một so sánh cực kỳ thô thiển thôi. Cả đế quốc Pháp và Mỹ hơn trăm năm thi hành chính sách thực dân cũ và mới trên đất Việt Nam nhưng giờ đây họ có lấy đi được mẩu nào lãnh thổ của ta hay không, hay chỉ có người anh em ở phương Bắc, bằng những cuộc tấn công chớp nhoáng mà tổng thời lượng chỉ bằng một phần rất nhỏ so với hai đế quốc kia, thì đã lấn đất tại phía Bắc, chiếm trọn Hoàng Sa, một phần Trường Sa, và nắn lại thềm lục địa? Đáng phải có thái độ thù ghét người Mỹ vì di chứng của chất độc da cam ư? Điều này người Mỹ phải có trách nhiệm, nhưng có ai đã từng tự hỏi di chứng của cuộc chiến Tây Nam và Campuchia mà Trung Quốc là một đồng tác giả, và cả chiến tranh biên giới phía Bắc chưa? Bao nhiêu người Việt đã mất “giò” tại biên giới và trên đất Campuchia vì mìn, và hệ quả kinh tế, xã hội của việc này đến đâu, và có hay không hệ quả của việc sử dụng vũ khí hóa học trong cuộc chiến phía Bắc từ phía Trung Quốc mà thời đó phía Việt Nam có nói đến? Đó là còn chưa kể di chứng thù hằn dân tộc đã gia tăng rất nhiều từ phía người Campuchia dành cho người Việt, sau cuộc đưa quân chẳng đặng đừng vào xứ này để triệt hạ chính quyền diệt chủng do Bắc Kinh đỡ đầu.

Nếu chúng ta đặt sang một bên quá khứ và hướng tới tương lai - điều hoàn toàn đúng - thì hãy nên cư xử một cách bình đẳng với tất cả các đối tượng lịch sử. Chớ nên vô tình hay cố ý biến thành kiến ý thức hệ trong hành xử với lịch sử - một tư duy hoàn toàn lỗi thời - quay ngược lại thành vũ khí trang bị cho một phía và làm rào cản ngăn chặn một phía khác, trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.


4.

Đã có quá nhiều thông tin được đưa ra từ nhiều nguồn về những hiệp định biên giới trên bộ và trên biển gây thiệt thòi cho Việt Nam, bất chấp cả sự hiển nhiên của thực địa lịch sử. Giả định đã có sự thiệt hại đó lãnh thổ, thì với vị thế yếu kém và hoàn toàn bơ vơ trong một thế giới của sức mạnh và các liên minh, người dân Việt, khi bị đặt vào thế đã rồi, hẳn cũng có thể tạm chấp nhận điều đó, nhưng thiết nghĩ chỉ với điều kiện sự thiệt hại này không thể cứ tiếp diễn và tiếp diễn…

Cả hai nước đều thống nhất cư xử ngoại giao đối với các tranh chấp lãnh thổ, nhưng trong khi Việt Nam áp dụng đường lối “ngoại giao người phát ngôn” đầy thụ động và bất lực, đi sau các sự kiện [4] , thì Trung Quốc lại dùng chính sách “ngoại giao nổ súng” và “ngoại giao hành động”, chủ động tạo sự kiện một cách đầy uy lực, để rồi sau đó cả hai cùng đi đến những giải pháp “chấp nhận được”. Ai cũng đã rõ sự thành công của chiến lược “vết dầu loang”, và như vậy “chấp nhận được” ở đây đã gần như đồng nghĩa với việc hợp thức hóa về mặt ngoại giao cho một bước đi về lãnh thổ của Trung Quốc, vì từ trước đến nay ta chưa từng được chứng kiến một hành động lấn tới nào đó của Trung Quốc được chỉnh lý lùi về lại như ban đầu.

Với việc Trung Quốc liên tiếp có những động thái mạnh mẽ và dứt khoát, trong điều kiện vị thế riêng của hai nước như hiện nay, cùng với những hệ quả về lãnh thổ cho đến lúc này, chiến lược ngoại giao nào và hiệu quả của nó ra sao là điều đặt ra gay gắt đối với lãnh đạo Việt Nam từ phía người dân, từ chính bên trong nội bộ những người có trách nhiệm.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không thể mãi cứ khẳng định chung chung về việc dùng ngoại giao làm phương cách giải quyết các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, mà đã đến lúc cần có sự minh định rõ ràng bằng những luận điểm, luận cứ và luận chứng cho một chiến lược cụ thể.

Chiến lược ngoại giao nào trong tương quan giữa các thế lực trên biển Đông và bàn cờ địa-chính trị; mặt mạnh và yếu của chiến lược đó trong tương quan với những chiến lược khả dĩ thay thế khác; hiện trạng lãnh thổ theo các hiệp định và phân định đã có với Trung Quốc; chiến lược biển mà Hội nghị Trung ương 4 đưa ra có bao hàm vấn đề chính trị và quân sự không, có như thế nào và triển khai ra sao; chính sách ngoại và đàm phán là đúng nhưng có phải là duy nhất đúng không, hay cần phải kiên trì ngoại giao nhưng sẵn sàng có thái độ cứng rắn hơn khi cần thiết [5] , nếu không thì vì sao không thể sẵn sàng… Và bao trùm lên hết, là chiến lược như hiện nay có phải là đúng hoặc hoàn toàn đúng không, có cần chuyển hướng chiến lược không, và nếu có thì chuyển hay thay đổi những mặt nào đó như thế nào. Đó là những điều nằm trong số các vấn đề cần có câu trả lời hợp lý lẽ và mang tính thực tiễn, trong quan hệ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.


5.

Trong việc luận chứng cho một chiến lược như vậy, đến nay, trí thức Việt Nam trong và ngoài nước chỉ có thể đóng vai trò hoặc là tán tụng “đường lối ngoại giao đúng đắn của Đảng ta” hoặc là những ý kiến “bên lề”, mà không có tác dụng trước sự “nhất quán” đã có.

Thực tế thì việc Trung Quốc có tập trận tại Hoàng Sa hay phần đảo mà họ đã chiếm tại Trường Sa, việc họ có “giao” hai quần đảo này cho Quảng Đông hay Hải Nam cũng không làm thay đổi hiện trạng lúc này. Nhưng vấn đề là các nhà chiến lược Trung Quốc không thể làm những việc thừa, chúng có thể là những bước đệm cho những động thái nào đó tiếp theo, là những gì sẽ phụ thuộc không ít vào phản ứng của Việt Nam cũng như bối cảnh bên trong và bên ngoài Việt Nam. Do vậy, trí thức Việt Nam không thể cứ đứng mãi bên ngoài vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Họ, cũng nhhư toàn dân, phải được - và phải chủ động - tham gia vào tiến trình đưa ra quyết định.

Người dân, học sinh, sinh viên Việt Nam đã phần nào nói lên nhu cầu đó và thể hiện nó trong hai cuộc biểu tình tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi. Vậy còn các trí thức lớn của đất nước, các vị còn đang ở đâu?

Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến các nhà “trí thức lớn”, những người mà tiếng tăm và danh vọng đã khiến mỗi lời nói ra là chuẩn mực kiến thức, suy nghĩ và hành động cho nhiều người và cho giới trẻ, những người mà nếu chịu lên tiếng sẽ có tác động lớn đến dư luận và có thể với cả chính quyền. Tôi hoàn toàn không thể, không dám và không có quyền ám chỉ cụ thể đến những ai, chỉ muốn nói rằng nếu bộ phận những người được xem là tinh hoa của tinh hoa ấy cứ mãi chỉ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông hay các sân khấu tri thức với những đề tài dễ chịu và né tránh những vấn đề gai góc nhất, hoặc dành cho mình vai trò im lặng của một bổn phận “cao cả” hơn và đứng sau cánh gà “gà” cho đám “ngựa non háu đá”, thì có lẽ sẽ đến lúc tác dụng đánh bóng tên tuổi lấn át tác dụng tác động cho tiến bộ xã hội.

Có thể ta sẽ cảm thấy yên ổn hơn nếu nghĩ rằng sau những ồn ào hiện nay rồi đâu cũng sẽ vào đấy, Hoàng Sa và một phần Trường Sa đã là của Trung Quốc, dù có sôi sục đến đâu. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, cần có sự tỉnh táo để nhận định rằng chiều sâu của nó là vấn đề chiến lược đối ngoại và ngoại giao trên thực tế chứ không phải chỉ là việc bày tỏ cảm xúc yêu nước, dù việc bày tỏ đó hoàn toàn là chính đáng và hoàn toàn có quyền.

Người trí thức Việt Nam nói chung và giới “trí thức lớn” nói riêng có dám tạo một áp lực tri thức lên giới lãnh đạo trong vấn đề này không, bằng cách chính thức và công khai đặt vấn đề về chiến lược đối ngoại và lãnh thổ?

Đây đó vẫn có những bài viết này, thư ngỏ nọ nhưng nào có hiệu quả gì đáng kể nếu người trí thức không biết dùng đến sức mạnh xã hội, sức mạnh tập thể của mình! Hết kiến nghị online này đến thỉnh nguyện thư nọ trên mạng, với cả ngàn, chục ngàn người ký cũng không có hiệu quả và hiệu ứng xã hội bằng chỉ khoảng 50 - 100 người (con số ước chừng tối thiểu nhất) cùng tuần hành bằng chân (không bằng việc lướt net), do các nhà trí thức có tên tuổi trên mọi lĩnh vực dẫn đầu, đến Văn phòng Trung ương Đảng hay Quốc hội, trao tận tay các vị ở đây một kiến nghị có các chữ ký bằng bút (không bằng chuột vi tính) về những vấn đề liên quan.

Hỡi các “trí thức lớn”, các vị đang ở đâu? Nếu đến lúc này mà các vị vẫn còn im tiếng, chiến lược đối ngoại chung và đối ngoại trên biển không được điều chỉnh thích hợp, thì với việc đối đáp giữa hai người phát ngôn bộ ngoại giao như đã thấy, tôi (và có lẽ rất nhiều người khác) tin rằng viễn cảnh của một nước “thực dân cộng sản” ở phương Bắc và một chư hầu ở phía Nam sẽ không là điều tưởng tượng trong tương lai.

--------------------------------------------------------------------------------
[1]Chúng ta đợi xem Trung Quốc sẽ lên tiếng phản đối như thế nào với Mỹ, Pháp…, hay bất cứ nước nào khác mà công dân gốc Việt tiến hành biểu tình chống lại họ.
[2]Những diễn đạt kiểu như thế là chính từ ngữ mà phía Việt Nam dùng vào thời đó.
[3]Từ này nghe có vẻ hơi chói tai nhưng đó chỉ là diễn đạt ngắn gọn của hàm ý về một thể phức hợp giữa Khổng giáo và chủ nghĩa cộng sản.
[4]Ngay mới đây thôi, cũng phải đợi đến khi Trung Quốc tập trận xong ở Hoàng Sa (16 - 23.11.2007) thì Người phát ngôn Bộ ngoại giao mới lên tiếng. Dễ hiểu là nếu lên tiếng trong thời gian họ còn tập trận thì càng chứng tỏ sự bất lực vì không thể có bất kỳ một biện pháp hay hành động thực tế nào có thể tác động vào sự kiện.
[5]Có câu “yếu nhưng không hèn”, vậy ta “yếu” nhưng có chấp nhận gắn nó với “hèn”? Trong chính trị, nhiều khi hèn không phải là hèn, nhưng vấn đề là có đáng hèn hay không, và bối cảnh có lối thoát khác mà ta không cần phải hèn hay không?
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Mon Dec 17, 2007 11:00 pm

Moi cac ban len internet xem thong tin ve HS - TS
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam

Postby vn_tuoitre on Wed Dec 19, 2007 9:36 pm

Đại hội Đoàn bàn về Trường Sa


Việt Nam có mặt trên 29 trong số 43 đảo của Trường Sa
Trong khi truyền thông trong nước không viết về các cuộc biểu tình về vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa cuối tuần qua, chủ đề này lại được mang ra bàn tại Đại hội IX của Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Báo Thanh Niên cho hay chủ đề các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa tại diễn đàn 'Tuổi trẻ bảo vệ Tổ quốc' của Đại hội đã thu hút sự thảo luận sôi nổi của các đại biểu đoàn viên.

Báo này cũng nói "hai vấn đề đại biểu quan tâm nhất là làm thế nào để phát huy lòng yêu nước của thanh niên một cách tích cực và phong trào Vì Trường Sa thân yêu".

Báo Thanh Niên ấn bản điện tử cũng dành một bài đăng trên trang nhất nói về hoạt động của các đoàn viên thanh niên trên Trường Sa, quần đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đại úy Trần Văn Hùng, bí thư liên chi đoàn Trường Sa được trích lời nói: "Chiến sĩ chúng tôi ngày đêm luôn
chắc tay súng quyết bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc".

Nghị quyết về Trường Sa

Cùng lúc, có tin Hội đồng Nhân dân tỉnh Khánh Hòa chuẩn bị ra nghị quyết về Trường Sa trong kỳ họp thứ 9 khóa IV vừa khai mạc hôm thứ Tư tại Nha Trang.

Chủ tịch HĐND Mai Trực được dẫn lời cho biết trong kỳ họp này, HĐND tỉnh sẽ ra nghị quyết về Trường Sa, trong đó có nội dung phản đối Trung Quốc thành lập thành phố hành chính quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời khẳng định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa và thuộc chủ quyền Việt Nam.

Đơn vị huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa có ba đơn vị hành chính trực thuộc gồm thị trấn Trường Sa và các xã Song Tử Tây và Sinh Tồn.

Tháng Năm 2007 Việt Nam đã cho tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân trên các đảo thuộc Trường Sa. Hành động này đã làm Trung Quốc tức giận.

Tờ Á châu Tuần san xuất bản tại Hong Kong tuần này có bài nói về tranh chấp Trung Việt xung quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bài báo cho biết hiện Việt Nam đang quản lý 29 trong số 43 đảo thuộc Trường Sa và duy trì một lực lượng gồm 700 quân nhân tại quần đảo này.

Á châu Tuần san nói sau khi Trung Quốc thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa, chính phủ Việt Nam đã triệu tập đại sứ Trung Quốc Hồ Càn Văn và tổng lãnh sự tại TP Hồ Chí Minh Hứa Minh Lượng để phản đối động thái này.


http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam ... nien.shtml
vn_tuoitre
Năng khiếu
Năng khiếu
 
Posts: 62
Joined: Sun Sep 24, 2006 4:16 pm
Blog: View Blog (0)
Top

Next

Post a reply

Smilies
em22 em36 em26 em39 em29 em35 em31 em34 em32 :D :) ;) :( :o :shock: :? 8-) :lol: :x :P :oops: :cry: :evil: :twisted: :roll: :!: :?: :idea: :arrow: :| :mrgreen: :geek: :ugeek:
Quote Selected
 

Return to Người Bình Định bốn phương

Who is online

Users browsing this forum: Alexa [Bot] and 3 guests