Last visit was: Tue Mar 20, 2007 5:02 pm It is currently Tue Mar 20, 2007 5:02 pm

All times are UTC




 [ 42 posts ]  Go to page Previous  1, 2, 3
Author Message
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 1:46 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Mộng Cầm

Mộng Cầm, bí danh của người yêu Hàn Mặc Tử, đi lầy chồng sau khi nhà thơ mắc bệnh phong - nỗi đau đớn bất tuyệt và niềm nhớ nhung đầy ám ảnh của đời Hàn. Cùng căn bệnh nan y, mối tình dang dở này là nhân tố vô cùng quan trọng khiến Hàn viết nên những vần thơ máu lệ tuyệt bút.

Trong tạp chí Văn (Sài Gòn) số 179, về Hàn Mặc Tử, ra ngày 1-6-1971 có đăng bài của ông Châu Hải Kỳ phỏng vấn Mộng Cầm về quan hệ giữa bà và nhà thơ Hàn Mặc Tử. Hình ảnh Mộng Cầm ở tuổi xế chiều được ghi lại qua ông Châu:

“Bà khuôn mặt đầy đặn, nước da dù đã trắng trẻo, mịn màng cũng được trang điểm qua loa một làn phấn lợt thêm hồng đôi má bên cặp môi cùng một màu hồng. Nếu không để ý đến cái thân thể cũng như cử chỉ, dáng điệu trang trọng xứng hợp với một nữ trung niên khuê các, mà chỉ nhận diện bằng “khuôn mặt nép bên hoa” thôi, thì mặc dù bà đã bốn mươi có lẽ, trông bà hãy còn đẹp đẽ, duyên dáng như một cô gái vừa quá tuổi trăng tròn.

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Câu thơ Thôi Hiêu tự dưng đến. Tôi thầm nói trong não: Khuôn mặt ấy, bảo xưa kia Hàn Mặc Tử không cảm sao được”.


Về sự gặp gỡ và giao tiếp giữa nhà thơ Hàn Mặc Tử với Mộng Cầm, chúng tôi xin trích lời Mộng Cầm trả lời phỏng vấn của Châu Hải Kỳ, gọi là có tiếng nói của của người trong cuộc.

Từ những chuyến đò Mũi Né đến lầu ông hoàng

Lời Mộng Cầm:
Năm ấy tôi 17 tuổi, học lớp nhất trường Nam Phan Thiết. Tuy mới học lớp nhất, nhưng tôi rất ham văn chương. Đêm đêm tôi thường đến học thêm Việt ngữ với cậu Bích Khê tôi. Cậu có mở một lớp đêm cho những ai muốn học thêm và có chỉ dẩn làm thơ văn. Những bài thơ tôi làm ra toàn thơ Đường luật, tôi đăng báo Công luận trong Nam. Một hôm đến trường, tôi tiếp một bức thư do nhà dây thép đưa lại. Đó là bức thư đầu tiên của H.M.T gửi cho tôi. Trong thư, H.M.T tỏ ý cốt tìm cho biết để giao thiệp trau luyện văn thơ. Tôi có gặp trên báo tên Hàn Mặc Tử một đôi lần, nhưng không biết H.M.T là ai, và cũng không biết, bằng cách nào, H.M.T biết được địa chỉ của tôi. Vì lúc này, theo như trong bức thư gửi cho tôi, H.M.T đang làm ở sở Đạc điền ở Quy Nhơn.

Tôi bận học thi Tiểu học, cho nên một tháng sau tôi mới trả lời. Bắt đầu từ đó, chúng tôi thường có thư đi lại với nhau, nhưng cũng nói toàn chuyện văn thơ…

Chúng tôi giao thiệp như thế được chừng năm, sáu tháng thì tôi phải về Quãng Ngãi. Cuộc giao thiệp gián đoạn. Về Quảng Ngãi, tôi gặp một người bạn học cũ mới hay chính bạn tôi quen với H.M.T, đã giới thiệu tôi với Hàn và cho Hàn địa chỉ. Chị cũng cho biết H.M.T vừa thôi làm sở Đạc Điền, vào Sài Gòn viết giúp các báo Sài Gòn mới và Phụ nữ tân văn.

Ở Quảng Ngãi mấy tháng, tôi vào Phan Thiết. Tôi ra Mũi Né ở học “cô đỡ” với cậu tôi là ông L.Q.T (anh lớn của Bích Khê).

Tình cờ, đọc Sài Gòn mới, cậu tôi thấy H.M.T nhắn trong mục thư tín: chị Mộng Cầm ở đâu cho biết địa chỉ…” Ông mới hỏi tôi: “Hàn Mặc Tử là ai mà cứ nhắn hỏi cháu hoài, sao cháu không trả lời?”.

Tôi kể câu chuyện quen biết trong mục trau luyện văn chương cho cậu tôi nghe. Cậu tôi cho phép, tôi viết thư cho Hàn Mặc Tử. Thư từ đi lại mật thiết trong mấy tháng. Thì một chiếu thứ bảy nọ, vào khoảng tháng tư tháng năm, Hàn Mặc Tử ra Phan Thiết. Anh mướn đò đi Mũi Né tìm đến bệnh xá. Tôi đang làm thuốc cho bệnh nhân, ông phu vào đưa vào cho tôi một tấm danh thiếp trên có đề mấy hàng

Hàn Mặc Tử
Chef Cercle d’ Etude
Quy Nhơn.

Tấm danh thiếp này tôi giữ mãi làm vật kỷ niệm bất ly thân cho đến lúc mấy tháng gần đây, vì đứa em họ tôi nó xin khẩn thiết quá, tôi mới cho nó. Hiện nó giữ bo bo và ai xin nó cũng không đưa, chỉ sợ mất.

Tôi đi ra thì thấy một chàng thanh niên mặc âu phục xoàng xĩnh đang đứng ở cửa bệnh xá.

Sau khi chào hỏi, tôi mời vào nhà, giới thiệu với cậu T. Cậu để cho chúng tôi tiếp chuyện tự nhiên. Kể ra, vào thời đại nam nữ cách biệt mà được như vậy cũng đã tự do lắm. Hàn Mặc Tử xin cậu tôi, sẵn có đò, cho phép tôi đi Phan Thiết chơi, luôn tiện nhờ tôi giới thiệu với Bích Khê mà anh hằng ao ước tìm gặp. Cậu tôi bằng lòng. Và tối hôm đó, chúng tôi xuôi đò về Phan Thiết.

Gặp hôm có trăng, nhưng chúng tôi không ngồi trên mui thuyền để ngắm sông nước mà ngồi trong khoang để nói chuyện. Hàn Mặc Tử không đẹp, nhưng nhỏ nhẹ, dễ thương. Hồi này anh mới 24 tuổi, song trông người anh yểu tướng, tôi in trí thế nào anh cũng không thọ. Nhờ ngọn đèn sáng dưới đó, tôi đã ngờ ngay từ hôm đó là anh có bịnh phung, hai trái tai anh hơi đỏ đỏ mà dày dày. Vì có học ở nhà thương nên tôi biết triệu chứng, tuy vậy, tôi chưa dám chắc. Đến sau này, tôi gặp anh Nguyễn Thông, bạn học cũ của tôi, cũng làm sở Đạc điền với Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn cho biết: “Chị có biết Hàn Mặc Tử bị phung không?” (thời kỳ còn nhẹ). Tôi mới chắc chắn.

Đoán biết Hàn Mặc Tử bị phung, song tôi không nói ra. Tôi vẫn một lòng kính trọng anh. Đò đến Phan Thiết, tôi đưa Hàn Mặc Tử đến trường Hồng Đức, cậu Bích Khê tôi dạy tại đây. Ở đó suốt buổi sáng chủ nhật, chiều lại, anh đáp chuyến tàu suốt trở vê Sài Gòn.

Sau ngày ấy, cậu Bích Khê bảo tôi ra dạy ở trường Hồng Đức. Vì lẽ đó mà Hàn Mặc Tử ra vào thường, thứ bảy nào anh cũng có mặt tại Phan Thiết, chiều chủ nhật lại vào. Một dịp thứ bảy đi chơi Lầu ông Hoàng, anh thổ lộ mối tính của tôi. Tôi trả lời anh: “Chắc rằng không thể đến chỗ làm bạn trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng”.

Anh hỏi lý do.

Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau. Nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được. Ý tôi muốn được một người chồng đẹp đẽ, tráng kiện… Tuy vậy, chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi luôn luôn ngụy biện để từ chối. “Em nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân mẫu”.


Đến đây, ông Châu Hải Kỳ xin lỗi ngắt lời bà:

- Tôi xin hỏi thật bà: bà không muốn đến hôn nhân, nhưng đối với Hàn Mặc Tử có lúc nào bà cảm thấy yêu không? Và trong những cuộc giao du thân mật đã có lần nào thi sĩ tỏ thái độ suồng sả với bà chưa?

- Chúng tôi rất mến nhau. Nhưng đó là mối tình văn thơ. Còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới. Cha mẹ đã cho giao thiệp tự do, chúng tôi phải giữ gìn cho xứng đáng. Vả lại, lúc bấy giờ, tôi tuy đã lớn tuổi, nhưng còn khờ lắm…

Người đi một nửa hồn tôi mất…

Mắc bệnh phong gần một năm thì Hàn Mặc Tử được tin Mộng Cầm sang ngang.

Mặc dù từ khi biết mình mang căn bệnh quái ác, Hàn tuyệt giao với bạn bè và cả Mộng Cầm. Mặc dù trong thâm tâm, chàng biết việc nàng lấy chồng là hợp lý và tất nhiên. Mặc dù chàng hiểu hơn ai hết rằng không thể gắn đời mình với đời nàng một khi mình đã thân tàn ma dại. Mặc dù… Song, mặc dù thế nào, cái tin phủ phàng kia vẫn chụp xuống đời chàng như cơn bão, bứng trốc gốc niềm an ủi lớn lao của tâm hồn. Hàn Mặc Tử đã chết lịm đi trong cảm giác mất mát sững sờ.

Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

(Những giọt lệ)

Thế là Mộng Cầm đã phụ tình chàng. Như một nữ hoàng lạnh lùng, nàng đã từ bỏ ngôi báu trong lòng Hàn để tìm một vương quốc khác. Trong rất nhiều bài thơ của tập Đau thương. Hàn Mặc Tử rên rỉ xót xa vì nỗi đau tình phụ. Chàng giận người yêu không chung thủy, lời thơ không nén được dằn dỗi:

Không rên xiết là thơ vô nghĩa lý
Em có chồng mà đành đoạn chia đôi
Xưa thứ gì dính dáng ở đầu môi
Nay trả lại để tôi làm dấu tích

(Dấu tích)

Càng giận lại càng thương. Nhà thơ thất tình lạc vào miền nhớ thương sầu thảm không có lối ra. Có khi chàng gọi cả tên thật của Mộng Cầm để trách than kể lể:

Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi

(Muôn năm sầu thảm)

Nghe sao thê thiết và bi lụy quá! Song hoàn cảnh bi đát của nhà thơ đã quy định điều ấy; Thể xác bị đày đọa vì bệnh tật, tinh thần quay quắt trong cô đơn. Có thể nói rằng nhà thơ đắm chìm trong quá khứ và mộng tưởng để tạm quên thực tại buồn đau. Mỗi lúc như thế, tự nhiên những kỷ niệm thơ mộng của mối tình thắm thiết hiện về đốt cháy cõi lòng.

Nhớ lắm lúc như si như dại
Nhớ làm sao bải hoải tay chân
Nhớ hàm răng nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều

(Muôn năm sầu thảm)

Biết bao đêm, trong cơn say lúy túy Hàn mong ước người xưa trở về. Niềm khao khát ấy càng mãnh liệt thì sự trống vắng càng thênh thang khi nhà thơ sực tỉnh:

Đêm nay lại giống đêm nào
Nhấp xong chung rượu buồn vào tận gan
Say thôi lại muốn Nàng nâng đỡ
Nhưng nàng xa từ thuở vu qui


Người mình yêu đã là vợ kẻ khác. Sự thực tàn nhẫn bủa vây nhà thơ. Nỗi đau tình phụ lên tới cực điểm, cộng với cảnh sống thiếu thốn và bế tắc vì bệnh tật vô phương cứu chữa, chừng ấy điều đủ cho Hàn Mặc Tử hình dung sự săn đuổi của số phận gấp gáp sau lưng, thậm chí bàn chân của nó đang dẫm nghiền lên trái tim tan nát của chàng. Nhà thơ đau đớn kêu lên:

Trời hỡi! Làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?

(Lang thang)

Tiếng kêu xé rách không gian, nỗi đau phơi bày chật chội cả vũ trụ, có lẽ Hàn là kẻ cùng cực nhất thiên hạ về cả vật chất, thể xác lẫn tinh thần. Chàng giàu hơn thiên hạ chỉ ở nỗi đau và những vần thơ trung thực với lòng mình. Hàn Mặc Tử thật có lý khi tự coi mình là một tiên hành khất:

Lãng tử ơi! Mi là tiên hành khất
May không chết lạnh trước lầu mỹ nhân
Lãng tử ơi mi là tiên hành khất
May không hộc máu chết rồi còn đâu!

(Lang thang)

Đã hành khất, mà thuộc hàng tiên; tức là hành khất thứ thiệt, hành khất “đắc đạo”. Đùa đấy mà đau đấy! Một bản lĩnh đang cười trên nỗi bất hạnh của chính mình, cái cười nghẹn ngào nước mắt.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 1:52 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Trăm năm vẫn một lòng yêu

Thật ra khi thốt lên những lời chua chát, Hàn không hề có ý trách móc Mộng Cầm nữa. Chàng chỉ giận nàng trong giai đoạn đầu, khi mà cái tin vu qui còn mới tinh gây nơi chàng một cú sốc tinh thần kinh khủng. Sau một thời gian đủ cho sự đột ngột thành điều đã qua, thành chuyện cũ, thì tình yêu giành cho Mộng Cầm mới hiện ra trong thơ chàng với tất cả chiều sâu và cường độ của nó như ta đã thấy.

Trót một lần gọi tên thật của Mộng Cầm để thở than, Hàn Mặc Tử kịp nhận như thế sẽ bất lợi cho hạnh phúc của người tình cũ. Từ đó, chàng thường kín đáo hơn khi nhắc tới nàng:

Ta là khách bơ vơ phàm tục
Nhớ cầm trăng cung bực tiêu tao

(Say chết đêm nay)

Chàng gọi nàng bằng cái tên mới chỉ mình chàng biết:

Lệ Kiều ơi em còn giữ ý thơ
Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo
Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo

(Trường tương tư)

Hoặc chỉ gợi lại một nét quen thuộc nơi nàng đã khắc sâu vào tâm thức chàng vĩnh viễn:

Cho tôi mua trọn hàm răng
Hàm răng ngà ngọc hàm răng đa tình!

(Lang thang)

Những cơn mưa gió trong hồn nhà thơ chẳng những không làm trôi dạt đi hình ảnh Mộng Cầm, mà ngược lại chỉ tô đậm thêm. Mai Đình kể lại với một người bạn gái rằng nàng đã nhiền lần chứng kiến Hàn Mặc Tử đập tay xuống bàn gọi tên Mộng Cầm và bậc khóc nức nở. Một hôm Mai Đình thức tỉnh Hàn: Mộng Cầm đã phụ chàng đi lấy chồng, chàng còn tưởng đến mà chi? Tức thì Hàn Mặc Tử vỗ tay xuống bàn ầm ầm rồi nói to như nói một mình: “Nàng bị gia đình ép uổng, Mộng Cầm vẫn yêu ta?”. Mai Đình hờn ghen, làm thơ phân bì với Mộng Cầm:

Mộng Cầm hỡi! Nàng là tiên rớt xuống
Hay là vì tinh tú giáng trần giang?
Diễm phúc thay sung sướng biết bao vàn
Đầy đủ quá nàng thương chăng kẻ thiếu?


Và có lần ngồi với Mai Đình ngoài sân mà Hàn lại làm thơ thương nhớ Mộng Cầm. Mai Đình chụp bài thơ xé nát. Hàn nhặt từng mảnh ráp lại thì mất đi đoạn cuối. Chàng thẫn thờ như một kẻ mất hồn.

Như thế đủ thấy rằng cái khoảng trống mà Mộng Cầm để lại trong lòng Hàn Mặc Tử rất khó lấp bằng. Chàng như con tằm đã rút hết ruột để nhả tơ tình, nằm đau trên lá dâu. Nhưng mà ruột tằm còn có lúc hết, phải ngừng nhả tơ, chứ tình Hàn đối với Mộng Cầm thật vô bờ bến:

Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn một lòng yêu-
Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi!

(Muôn năm sầu thảm)

Mối tình với Mộng Cầm gần như “chiếm lĩnh” suốt tập Đau thương. Nhà thơ, người đã “tiêu tán” cả thân xác và tâm hồn vì tình yêu ấy, đã biến trời thơ thành một trường tương tư dằng dặc nỗi buồn.

***


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 1:57 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Xin trở lại vấn đề mà ông Châu Hải Kỳ đặt ra với Mộng Cầm: Mộng Cầm có yêu Hàn Mặc Tử không?
Câu trả lời của Mộng Cầm khiến nhiều người có ý nghĩ: Bà phủ nhận tình yêu của mình đối với Hàn Mặc Tử.

Chính vì thế mà một lần thi sĩ Quách Tấn hỏi nhà thơ Bích Khê:
- Mộng Cầm có yêu Hàn Mặc Tử thật sự chăng?

Bích Khê trả lời:
- Không yêu mà chiều thứ bảy nào, Tử cũng ra Phan Thiết để cùng Mộng Cầm đi chơi với nhau đến chiều chủ nhật hôm sau mới vào Sài Gòn. Hai bên giao tiếp thân mật với nhau ngót hai năm trời mà nếu không yêu nhau thì chỉ có gỗ đá.

Bích Khê là cậu ruột của Mộng Cầm. Việc Mộng Cầm đi lấy chồng sau khi Hàn Mặc Tử ngã bệnh bị Bích Khê kịch liệt lên án. Song đó là xuất phát từ tình bạn của Bích Khê đối với Hàn Mặc Tử. Thi sĩ Quách Tấn quan niệm việc Mộng Cầm đi lấy chồng là lẽ tất nhiên và nàng không đáng trách. Cái đáng trách của Mộng Cầm, theo ông, là ở từ chối một sự thật của lòng mình. Đây là lời thi sĩ Quách Tấn nói với một người bạn:
- Tôi đã từng đọc thư Mộng Cầm gửi cho Tử. Nếu anh được xem bức thư nàng cho gửi cho Tử năm 1936 lúc anh Mộng Châu bị nạn mất ở Phú Yên, chỉ xem một bức ấy thôi, thì anh cũng có thể đo được mức thiết tha của tình yêu đôi bên... Mộng Châu là anh ruột Tử và Mộng Cầm tỏ ý muốn... Thôi nàng đã có chồng rồi, nhắc lại không hay ho gì.(Lời Bích Khê và Quách Tấn bàn về Mộng Cầm ghi theo quyển Đời Bích Khê của Quách Tấn, trang 172, 176)

***

Tất cả những lời bàn ấy về Mộng Cầm là sau khi nàng đã có chồng. Cả câu hỏi của ông Châu Hải Kỳ và câu trả lời của Mộng Cầm cũng diễn ra khi người mà Hàn Mặc Tử yêu thiết tha hồi nhà thơ còn sống đã yên bề gia thất. Mộng Cầm đã ở vào tuổi trung niên, mà Hàn Mặc Tử thì đã qua đời từ lâu.

Song, đọc lại bài viết của ông Châu Hải Kỳ, có thể thấy rằng Mộng Cầm không hoàn toàn phủ nhận tình yêu của mình đối với Hàn Mặc Tử. Bà (lúc ấy Mộng Cầm đã cao tuổi) chỉ nói tránh đi một chút những điều không tiện nói ở một người có hoàn cảnh như bà.

Cái chi tiết bà giữ bo bo tấm danh thiếp của Hàn Mặc Tử như một vật bất ly thân suốt mấy mươi năm, và câu chuyện bà với Hàn trao đổi với nhau sau khi bán tập thơ Gái quê cũng như việc bà thừa nhận mình có đi chơi Lầu ông Hoàng với Hàn gặp mưa... Chừng ấy đủ chứng tỏ bà vẫn ghi nhớ những kỷ niệm giữa hai người.

Giả sử như bà muốn phủ nhận hoàn toàn, thì ngôn ngữ của bà đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát của nữ chủ, hé lộ cái tình yêu của bà đối với người đã khuất, một tình yêu thuộc về quá khứ xa xôi.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 2:08 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Ngậm ngùi

Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Yêu rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hay thờ ơ, chẳng biết.


Mấy câu thơ trên của nhà thơ Xuân Diệu có thể nói rất đúng với trường hợp Mai Đình. Mai Đình tên thật là Lê Thị Mai người xứ Thanh. Phụ thân nàng là một tùy viên làm việc ở Tòa sứ Phan Thiết. Nàng không đẹp, cũng không có duyên, nhưng rất lãng mạn và biết làm thơ.

Vì ham thích văn thơ, lẽ đương nhiên Mai Đình biết tiếng Hàn Mặc Tử cũng như căn bệnh hiểm nghèo của chàng và chuyện nhà thơ bị phụ tình. Mai rất muốn gặp Hàn, ban đầu là vì tò mò. Trong chuyến đi từ Thanh Hóa vào Phan Thiết, năm 1937, nàng ghé Quy Nhơn và nhờ Trần Kiên Mỹ dẫn đến thăm Hàn Mặc Tử. Hàn không tiếp chỉ gửi tặng nàng một tập Gái quê.

Trên chuyến tàu Quy Nhơn - Phan Thiết, Mai Đình đọc tập Gái quê. Sau khi đọc xong, lòng thương yêu của nàng đối với Hàn Mặc Tử chuyển thành tình yêu. Nàng quyết chí gặp Hàn Mặc Tử.

Anh đứng cách xa hàng thế giới

Bài thơ đầu tiên Mai Đình tặng Hàn Mặc Tử là bài Biết Anh, viết sau khi đọc tập Gái quê của Hàn:
Còn anh em đã gặp anh đâu!
Chỉ cảm vần thơ có những câu
Âu yếm say sưa đầy cả mộng
Xui lòng tơ tưởng lúc đêm thâu.

...

Nàng ao ước giãi bày tình yêu với Hàn Mặc Tử:
Mộng hồn em gửi theo chiều gió
Để được gần anh ngỏ ít lời


Vốn bạo dạn và mãnh liệt, Mai Đình gặp nhà thơ Quách Tấn. Vừa khóc lóc, nàng vừa thật tình thổ lộ tình mình đối với Hàn, và gửi cho nhà thơ mới gặp lần đầu này bài thơ Biết Anh. Quách Tấn đi từ chỗ ngạc nhiên đến chỗ cảm động, gửi thư cho bạn kèm bài thơ Mai Đình. Trong thư, Quách Tấn nói dối bạn Mai Đình là một "tuyệt thế giai nhân". Hàn Mặc Tử được thư, làm bài Lưu luyến nhờ Quách Tấn trao lại Mai Đình. Xin trích khổ đầu và khổ cuối của bài thơ:

Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì.
...
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn: Hồn em đã tới nơi
.

Sau khi nhận thơ tặng lại của Hàn, Mai Đình rất hy vọng. Nàng ra Quy Nhơn ghé nhà Hàn mấy lần, nhưng nhà thơ vẫn không tiếp. Mai Đình tưởng Hàn Mặc Tử mặc cảm mà tránh mặt. Thực ra, nhà thơ đã nhìn nàng qua khe cửa. Nhận thấy người và thơ quá ư khác biệt, e rằng sự tiếp xúc sẽ cuốn trôi hết những ấn tượng tốt về nàng nên nhà thơ cố tình giữ một khoảng cách.

- Anh nhìn Mai chua xót nửa tấm lòng

Mai Đình tin ở sự kiên nhẫn của mình. Nàng vẫn tới thăm Hàn, dù không được gặp mặt.

Các chị của Hàn Mặc Tử thấy nàng nhiệt tình quá thì thương cảm, khuyên nhà thơ không nên xử tệ với nàng. Từ đó Hàn Mặc Tử mới cho Mai Đình gặp mặt. Chàng luôn luôn nhắc đến Mộng Cầm trong những lần cùng Mai trò chuyện, ngụ ý bảo nàng đừng hy vọng.

Lần cuối cùng Mai Đình đến thăm Hàn Mặc Tử vào năm 1939. Nàng xin phép mẹ Hàn lưu lại vài hôm. Trong vài hôm ngắn ngủi ấy, nàng bộc bạch nỗi lòng với Hàn Mặc Tử một cách thật tình, song không vượt qua khuôn phép. Tấm chân tình của Mai Đình khiến Hàn vô cùng xúc động nhưng chàng chỉ thương nàng chứ không yêu. Khi họ từ biệt nhau, Hàn trao cho nàng bài thơ mới viết:

Cười cho lắm cho dầm dề nước mắt
Chết ruột gan mà ngoài mặt như không
Anh nhìn Mai chua xót nửa tấm lòng
Không biết nói làm sao cho da diết

...

Trong bài thơ này, có những câu rất tình tứ:
Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vần vào muôn sóng mắt!
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!


Những câu như thế dễ gây ngộ nhận cho người đọc, nhưng Hàn Mặc Tử không câu nệ điều đó. Nhà thơ thú nhận khi làm thơ tặng Mai Đình, chàng trải qua những phút rung cảm sâu sắc. Có lễ đó chỉ là tình yêu trong thơ.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 2:20 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Khối tình không tan

Mặc dù biết Hàn Mặc Tử không yêu mình, nhưng Mai Đình vẫn yêu Hàn tha thiết. Tình của nàng đối với Hàn Mặc Tử là "tình cho đi không lấy lại bao giờ". Về phía mình, nàng đã nhớ nhung, khổ sở, ghen tuông trong những lúc sóng tình trào cuộn. Nàng thành thực đến mức thú nhận với "tình địch" sự thua kém của mình:
... Tôi là kẻ thiếu nhiều và thiếu mãi
Đã ra người hành khất bấy lâu nay
Mà người đời toàn ban vị đắng cay
!
(Phân bì Mộng Cầm)

Mai Đình những mong tình yêu của mình đem lại cho Hàn một nguồn an ủi trong cảnh ngộ đau thương. Đến khi hiểu ra mọi cố gắng của mình là không cần thiết đối với Hàn Mặc Tử, nàng chủ động rút lui để Hàn khỏi bận lòng. Nàng từ biệt Hàn sau những ngày tháng chịu đựng cảnh người mình yêu chỉ thương nhớ người cũ. Không phải nàng tự ái. Sự thật là nàng tình cờ đọc được bài thơ Hàn viết cho Ngọc Sương, chan chứa tình yêu thầm kín. Nàng nghĩ rằng Hàn đã tìm được lối thoát cho tình cảm bấy lâu bế tắc sau sự phụ rẫy của Mộng Cầm. Điều đó làm nàng yên tâm về Hàn.

Dù ở xa, Mai vẫn hướng vọng về Hàn Mặc Tử. Đến khi thi thể Hàn đã vùi dưới ba thước đất sâu, thì Mai Đình là người duy nhất (trong số những người phụ nữ được Hàn yêu hoặc có yêu Hàn) tìm đến tận Quy Hòa để thăm nơi an nghỉ của nhà thơ. Suốt trong thời gian tao loạn chiến chinh. Mai Đình vẫn không nguôi nhơ thương Hàn Mặc Tử. Bài thơ Trăng cũ của nàng là tiếng đập của một trái tim cô lẻ không biết mỏi mòn.

Cho đến bây giờ, Mai Đình vẫn nhắc tới Hàn Mặc Tử với một tình yêu không chịu già cỗi theo năm tháng, mặc dù Mai Đình ngày nay không còn là một cô Mai son rỗi của ngày nào.

Người ngọc

Nhờ Mai Đình mà Ngọc Sương biết được Hàn Mặc Tử yêu mình.

Bích Khê, em nàng, là bạn thân của Hàn Mặc Tử. Thấy sau khi Mộng Cầm có chồng, Hàn Mặc Tử cứ như người mất hồn, Bích Khê rất thương bạn. Biết rằng Mai Đình không thể nào thay thế nổi Mộng Cầm trong lòng Hàn. Chàng nghĩ ra một cách giúp bạn nguôi ngoai niềm nhớ thương sầu muộn.

Trong một lần ra thăm Hàn Mặc Tử, Khê tặng cho Hàn bức ảnh của chàng chụp chung với chị Ngọc Sương. Hàn Mặc Tử hỏi, Khê cho biết đó là chị ruột của mình, cũng am hiểu văn chương và rất thích thơ Hàn. Từ đó, mỗi lần nhớ Bích Khê, Hàn Mặc Tử giở bức hình ra xem. Hình ảnh Ngọc Sương bên cạnh những lời giới thiệu của Bích Khê văng vẳng trong tâm trí. Dần dần, Hàn Mặc Tử "cảm" người trong ảnh. Đối ảnh sinh tình, chàng viết bài Người ngọc, hai chữ Ngọc Sương được lồng vào thơ một cách kín đáo và ý nhị:
Ta đề chữ Ngọc trên tàu lá
Sương ở cung thềm gió chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen căn phải môi


Thế rồi một hôm Bích Khê lại ra thăm. Hàn Mặc Tử ngắm bức ảnh, làm như tình cờ đọc mấy câu thơ ấy. Bích Khê vờ không để ý nhưng lòng thầm sung sướng vì thấy mưu sự của mình đã thành. Chàng cũng không cho chị hay.

Sau khi gạn hỏi Bích Khê rõ nguyên nhân, Ngọc Sương trách yêu em và yêu cầu Bích Khê ngừng ngay trò đùa nguy hiểm lại.

Mối tình đối với Ngọc Sương chỉ là một ý thơ hư thực thoáng qua đời Hàn Mặc Tử. Và nhà thơ như một người góp nhặt từng tia sáng trong những hình ảnh đẹp đẽ để thắp lên rực rỡ thế giới thi ca của mình.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 2:23 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Thương thương nàng tiên trong cõi mộng

Sau khi từ biệt với Mai Đình ít lâu, Hàn Mặc Tử nhận được thư Trần Thanh Địch từ Huế gửi vào. Trong thư Địch đính kèm thư của một thiếu nữ tự xưng là Thương Thương. Địch giới thiệu Thương Thương là nữ sinh trường Đồng Khánh, rất mê thơ Hàn Mặc Tử, muốn làm quen với nhà thơ.

Cái lai lịch "nữ sinh Đồng Khánh" chiếm ngay được niềm tin của Hàn. Bởi trước kia, khoảng 1936, Hàn có dịp đến các trường trung học ở Huế và được giới học trò ở Huế rất hâm mộ.

Thêm vào đó, nhà thơ bị khủng hoảng nặng nề về tình cảm từ ngày Mộng Cầm khoác áo vu qui. Mai Đình, Ngọc Sương... những cuộc tình thoáng qua chỉ khơi thêm sự đau khổ nơi chàng. Giờ đây, bỗng dưng có một nữ sinh mang cái tên khả ái và hẳn là còn rất thơ ngây viết thư bày tỏ lòng mến mộ đối với chàng, ca ngợi thi tài của chàng. Như người sắp chết đuối, thấy một cái phao trôi về phía mình, Hàn Mặc Tử níu lấy tình cảm của Thương Thương với tất cả lòng cảm kích và hy vọng. Qua những lời thư dịu dàng của người thiếu nữ xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã yêu nàng tha thiết, không cần biết mặt Thương Thương nhà thơ vẫn cứ mường tượng để mà yêu.

Mỗi lần nhận được thư Thương Thương, Hàn sung sướng đọc rồi giấu kỹ những bức "tình thư" kia dưới gối. Mỗi lúc nằm ngồi một mình chàng lấy thư ra đọc, hình dung ra "cử chỉ", "điệu bộ" của người yêu. Mối tình trong mộng ngọt ngào đầy thi vị làm tươi lại cõi hồn cơ hồ đã héo úa của chàng. Nhà thơ rất siêng hồi âm cho Thương Thương. Bức thư nào của chàng gửi cho nàng cũng tràn đầy một tình cảm thắm đẹp mặn nồng.

- "Thương Thương! Cái tên thi vị quá! Thương Thương là một bài thơ, hơn nữa, một nguồn thơ bất tuyệt. Những hàng chữ đơn sơ của em cũng rung cảm được tâm hồn anh... Ở lòng anh có Thương Thương, nghĩa là có thơ, có nguồn thơ vĩnh viễn đấy" (1)

Tình đối với Thương Thương có sức mạnh của một phương thuốc hồi sinh. Yêu nàng, Hàn Mặc Tử "quên hết cuộc đời tân khổ, gian lao" (2), quên cả những đắng cay buồn thảm sau cuộc tình giang dở với Mộng Cầm.

Với hình ảnh của Thương Thương trong tưởng tượng, Hàn Mặc Tử bước vào thời kỳ sáng tác mới với một tốc độ phơi phới. Nhà thơ viết liên tục một tập thơ tình là Cẩm châu duyên với hai vở kịch Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội.

Không khí bao trùm tập thơ và hai vở kịch thơ là một không khí trong trẻo, nhẹ nhàng và siêu thoát. Đó là những dòng mau mắn tràn đầy niềm vui về một hạnh phúc thần tiên hiếm có. Cốt truyện của hai vở kịch thơ cũng đầy khí sắc thiên tiên. Trong đó, các nhân vật đều là tiên, từ nhà Hàn Mặc Tử tới kỹ sư Thương Thương cũng là người của chốn Bồng Lai tiên cảnh.

Nhưng cả Cẩm châu duyên lẫn hai vở kịch thơ ấy đều chỉ là những giấc mộng tình. Trên đời, có giấc mộng nào là vĩnh cửu?

Tàn giấc mộng tình

Tập Cẩm châu duyên ban đầu có tên là Thương Thương, nhưng rồi Hàn Mặc Tử thấy bất tiện nên đổi đi.

Tất cả thơ trong Cẩm châu duyên và hai vở kịch thơ Hàn Mặc Tử viết đến đâu đều chép đến đấy gửi ra cho bạn là Trần Thành Địch và Trần Tái Phùng để san xẻ niềm vui sáng tạo và nguồn hạnh phúc tràn trề.

Hàn Mặc Tử hình dung Thương Thương sẽ rất cảm động và vui sướng khi được đọc những bài thơ chàng viết tặng nàng, những bài thơ chan chứa yêu thương và thơ mộng.

Những điều đó chỉ là tưởng tượng. Tội nghiệp cho chàng.

Thương Thương không phải là một nhân vật có thật. Tất cả mọi việc đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra. Nguyên sự thế này: Sau khi bị Mộng Cầm phụ tình, Hàn Mặc Tử đau đớn như ngây dại. Thư nào gửi cho Trần Thanh Địch, nhà thơ cũng than thở vì nỗi đau bị bỏ rơi. Nhận thấy vết thương lòng Mộng Cầm gây cho Hàn quá sâu. Mai Đình không thể hàn gắn nổi, Trần Thanh Địch bèn mượn tên của cô cháu gái mới 12 tuổi (em ruột của Trần Tái Phùng) vờ giới thiệu Thương Thương là một giai nhân yêu quí thơ Hàn. Tất cả những bức thư "của" Thương Thương đều là "sáng tác" của Trần Thanh Địch dưới nét chữ của người khác. Thư Hàn gửi ra cho Thương Thương theo địa chỉ do Địch bố trí. Mới đầu, Trần Thanh Địch vì quá thương bạn, bày ra như thế chỉ cốt để cứu vớt Hàn ra khỏi tình cảnh thất tình bi đát. Không ngờ Hàn quá cả tin và hy vọng, ngày càng lạc sâu vào giấc mộng Thương Thương.

Khi tác phẩm mới của Hàn gửi ra, Trần Thanh Địch và Trần Tái Phùng mới giật mình. Tình yêu trong thư có thể giấu nhẹm được, chứ tình trong thơ sớm muộn gì cũng bay khắp mọi nơi. Rồi đây, cô bé Thương Thương thật lớn lên sẽ nhận lấy bao lời đồn gần xa oan uổng. Để bảo vệ danh giá gia đình và vì trách nhiệm trước tương lai em gái, Trần Tái Phùng viết thư trình bày toàn bộ sự thật với Hàn.

Hàn Mặc Tử tiếp được thư Trần Tái Phùng trong khi chuẩn bị viết đoạn kết vở Quần tiên hội. Đất trời như sụp đổ trước giấc mộng tình tan vỡ. Nguồn thi hứng hẫng hụt. Vở kịch mãi mãi dở dang.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 2:32 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
III. Qua ký ức bạn bè

Hoàng Diệp

Hàn Mặc Tử ngâm thơ

Nói đến chuyện ngâm thơ, tôi không quên bạn Hồ Sĩ Tấn. Chàng có giọng rất trầm và khi ngâm, chàng tỏ ra rất hiểu thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử... khi nghe chàng cất tiếng ngâm, các thiếu nữ vườn bên nhè nhẹ hé cửa đón lấy những hơi âm dịu như ánh nắng mai. Và cứ mỗi sáng chủ nhật lại có một cuộc họp bạn để chọn thơ cho chàng ngâm. Lẽ tất nhiên, Hàn Mặc Tử vắng mặt vì bệnh, nhưng bao giờ thơ chàng cũng được ghi vào chương trình nghị sự".

Những buổi ngâm thơ ấy làm cho tôi nhớ mãi nét mặt của Hàn Mặc Tử, điệu bộ chàng lúc chàng ngâm. Một hôm, vẫn tại ngôi nhà ở xóm Tấn, tôi yêu cầu Hàn Mặc Tử cho tôi nghe một sáng tác, một điềm lạ hôm qua, thì Tử mời tôi ngồi để nghe lời thơ. Hàn Mặc Tử nằm xuống và nói:

- Đây là bài "Phan Thiết, Phan Thiết", Tử mới làm hồi hôm.

Chàng cất giọng ngâm. Đến đây, các bạn tưởng sẽ có một đoàn chim nhạn đang bay hay trận mưa rào trút lá? Không đâu, Hàn Mặc Tử ngâm thơ rất tệ, giọng đều đều, rè rè, nghe không thú, nhưng cũng ứa buồn. Buồn cho đến lạnh cả xương sống khi hai mắt chàng trợn ngược lên chỉ thấy cả lòng trắng và nước bọt phều ra ở hai khóe miệng. Chàng ngâm đến đoạn:

Ta lang thang tìm tới chốn lầu trăng
Lầu ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang:
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết...
Ôi! Trời ơi! Là Phan Thiết, Phan Thiết!


Hàn Mặc Tử nhấn mạnh hai chữ Phan Thiết, Phan Thiết, rồi ngất đi, hết sức lực, chàng nằm im để thở một hồi lâu mới tiếp tục. Nhưng bây giờ giọng ngâm của chàng đã làm cho tôi nhận thấy cảnh tàn tạ, thê lương của con người bạc mệnh:

Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi:
Ta đến nơi: nàng ấy vắng lâu rồi,
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ!
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ,
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng,
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu rêu thống thiết!
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu!
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!


Ngâm xong, chàng nằm thẳng người, nhắm kín đôi mắt, hình như muốn theo đuổi những ý tưởng gì ở đâu. Tôi vẫn ngồi im bên giường chàng. Bỗng nhiên tôi nghe một tiếng rên rất nhỏ, có thể là tiếng thở dài của sự nhớ nhung.

Tôi biết rõ không phải là tiếng rên do sự đau nhức hay sự buồn bã, mà chính là tiếng rên nấc xuất phát từ bề sâu của một linh hồn tuyệt vọng. Tôi nhận biết tiếng rên ấy. Tôi biết rõ hình dáng của nó. Có những đêm, trong khi mọi người mọi vật đều chìm đắm trong bóng tối kinh hoàng, tiếng rên ấy lại xuất hiện tự trong hồn tôi mà ra, đụng chạm bức tường không gian và âm thanh dội lại vào hồn tôi. Hàn Mặc Tử thiêm thiếp mãi và - không muốn khuấy động giấc mơ của chàng - tôi đã lặng lẽ ra đi trong buổi chiều ấy, lòng buồn như mùa thu và tê tái như sự biệt ly, tôi nuối tiếc một mảnh sao sắp rơi, chìm đắm giữa khoảng âm u...


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Thu Mar 08, 2007 2:36 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Nguồn thơ cuối cùng

Một hôm giới văn nghệ sĩ ở Quy Nhơn bàn tán xôn xao về tin Hàn Mặc Tử sắp cưới vợ.

Buổi chiều ấy, sau khi đi làm về, tôi ghé qua nhà Hàn Mặc Tử. Thấy tôi, chàng ngồi dậy, tiến đến bộ xa lông mây và mời tôi ngồi. Sự mừng rỡ hiện rõ trên mặt chàng. Bỗng chàng đẩy mạnh ghế, chạy lại giường kế cận. Chàng sờ soạng dưới chiếu có ý muốn tìm một vật gì quí báu như chàng đã giới thiệu trước. Từ trong cái bao gối "tai bèo", chàng lôi ra một phong thư, một mảnh giấy, ấp vào ngực và vừa run vừa nói:

"Diệp ạ, cả và gái Huế đều yêu mình, sướng quá! Đây, Diệp nghe, một nữ sinh Đồng Khánh tên là nường Thương Thương rất thuộc thơ mình, rất yêu thơ mình và ngâm thơ mình suốt ngày. Chắc nường ấy bị phạt luôn vì không thuộc bài mà chỉ thuộc thơ thôi".

Tôi hỏi lại Hàn Mặc Tử: "Cô ấy yêu thơ Hàn Mặc Tử, thuộc thơ Hàn Mặc Tử, nhưng có yêu Hàn Mặc Tử không?". Chàng phá lên cười sặc sụa và nói: "Diệp này, phải nghĩ lại cho kỹ: Người ta yêu thơ Hàn Mặc Tử tức là yêu Hàn Mặc Tử rồi. Cái gì nói thơ là nói Hàn Mặc Tử và cái gì nói Hàn Mặc Tử là nói thơ vậy".

Thật là một lối biện luận quá kỳ khôi.

Rồi từ đó, thao thao bất tuyệt, các tập thơ Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội ra đời cùng một lúc.

Tôi không biết gì nhiều hơn về mối tình đầy bí hiểm, lạ lùng giữa Hàn Mặc Tử và Thương Thương. Tôi chỉ nói Thương Thương là nguồn thơ cuối cùng của Hàn Mặc Tử.

Lối ăn mặc của Hàn Mặc Tử

Về y phục, Hàn Mặc Tử luôn luôn mang áo dài tay, không cài nút măng sét. Áo quần không được sạch sẽ lắm. Người nhà phải nhắc nhở đến năm ba lượt mới chịu thay.

Năm 1956, nhiều lần tôi gặp bà Nguyễn Thị Như Lễ, chị ruột Hàn Mặc Tử ở Huế. Bà cùng tôi nhắc lại nhiều chuyện xưa về Hàn Mặc Tử. Hồi ấy, các thầy lang chữa bệnh khuyên chàng không nên ăn thịt, trái cây và kẹo bánh. Vốn người hiền hậu thật thà, ai dặn dò khuyên nhủ điều gì, Hàn Mặc Tử nghe theo như nghe những giáo điều trong thánh kinh. Vì thế, suốt đời, chàng chỉ ăn cá, loại cá chàng thích nhất là cá liệt. (Loại cá ở nước ngọt, hình mỏng và thuẫn như ngọn lá mít)

Trong thời gian gần hai tháng ở nhà thương Quy Hòa, mẹ và các chị chàng lo việc chuyển đồ ăn vào. Theo lời các bà phước cho biết, hôm Hàn Mặc Tử mất, trước đó chàng có ăn thịt, bị đau bụng đi tả và từ trần. Chàng chỉ bận một bộ áo quần cũ vì bao nhiêu áo quần mới may, chàng tặng bạn tất cả.

Khi liệm xác Hàn Mặc Tử, người ta thấy thi ca đã để lại những dấu vết cuối cùng trên thân người chiến bại là một vệt đen trên gò má hóp và một ngón tay bị cong queo lại.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Sat Mar 10, 2007 4:18 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Thi Nại Thị, Quách Tấn, Yến Lan

Thị Nại Thị- Hàn Mặc Tử và bát Hải Sâm

Năm 1938 Hàn Mặc Tử vào Nha Trang chơi. Một thương gia Hoa kiều - chú Lâm Dũ Hà - mời tôi và Tử đến ăn tiệc. Tân khách trên mười người mà chỉ có hai chúng tôi là người Việt Nam. Món ăn phần nhiều là hải vị. Chủ nhân mời mọc ân cần và mỗi món ăn đều có giới thiệu hoa mỹ. Thật là vừa êm tai vừa ngon miệng. Tử rất lấy làm vui.

Đến món hải sâm.
Tử hỏi:
- Hải sâm là sâm biển. Có bổ bằng Huệ Kỳ sâm, Cao ly sâm không?
Một ông bạn cười đáp:
- Hải sâm là một sinh vật ở biển.
Một ông khác nói tiếp:
- Tức là con đỉa biển.
Tử ngạc nhiên:
- Con đỉa biển?
- Phải, phải. Nó giống như đỉa đồng song lớn hơn, có con lớn bằng cườm tay, cườm chân...

Tử ngồi ngó tôi có vẻ lo lắng, khi thấy tôi múc hải sâm, Tử lắc đầu nhưng bị chủ nhà nài ép. Tử vì nể nếm một muỗng nhỏ rồi nhất định chối từ. Tôi tưởng rằng không hợp khẩu.
Khi ra về, Tử cặp tay tôi đi và âu yếm hỏi:
- Ở biển mà cũng có đỉa sao anh?
Tôi cười đáp: “Có cả thi sĩ ngớ ngẩn nữa đó”.
Tử làm thinh.
Hai hôm sau, ngồi uống trà sớm. Tử hỏi tôi:
- Anh có sợ đỉa chăng?
- Tôi không sợ nhưng rất gớm!
- Tôi thì vừa gớm vừa sợ... Nó mềm mềm lạnh lạnh... Chao ôi! Mới nghĩ đến đã rùng mình! Mà tôi nghe nói: “Đỉa đốt cháy ra tro bỏ vào nước thì thành đỉa con”, có thật vậy không?
Tôi bỗng đùa:
- Đốt ra tro mà còn hóa đỉa con được, huống hồ nấu chín. Vậy món hải sâm mà mình ăn hôm nọ sẽ sanh sản hải sâm con trong ruột mình chứ chẳng chơi.
Tử nói với một giọng thật thà:
- Tôi ngại quá anh ạ. Hôm đó nghe nói đỉa biển tôi đã nghĩ ngay đến đoàn đỉa con. Vì nể chủ nhân quá nên tôi phải ăn một chút. Tôi nhờm quá! Nuốt vừa khỏi cổ, mình tôi rởn ốc! Mãi đến nay, nghĩ đến tôi còn rùng mình và thấy trong ruột nó sao sao...
Tôi bật cười. Tử rằng:
- Anh chớ cười. Nếu quả thật vậy thì... nó cắn rứt trong bụng còn có thể chịu được. Rủi nhiều quá nó chui ra mũi, ra miệng... Chao ôi! Gớm chết!
Tôi tức cười nôn ruột nói:
- Phần đông người Tàu bụng lớn vì chứa nhiều đỉa biển chớ gì?
- Chẳng không có thật vậy sao?
Nhận thấy Tử có vẻ lo ngại thật tình, tôi bèn chỉnh dung:
- Nếu quả đỉa đã bị đốt cháy, nấu chín rồi mà còn sanh sản được thì lâu nay người ta ăn hải sâm đã bị đỉa cắn đứt ruột chết. Như vậy hải sâm còn bán cho ai mà bán đắt giá thế?
Tử như sực tỉnh vui vẻ nói:
- Ừ phải! Thế mà mấy hôm nay bị bầy đỉa con ám ảnh, tôi không nghĩ ra điều đó. Nay hết lo... Mà này anh, sao tôi vẫn thấy nhờm nhờm.
Tử bưng chén nước trà bốc hơi đưa lên mắt xông. Tôi cười:
- Có thấy bầy đỉa con bơi trong đó chăng?
Tử cười:
- Dù sao vẫn thấy nhờm nhờm và nhất thiết không ăn nữa.
Câu chuyện hải sâm từ ấy trở thành một giai thoại trong đám người quen thân.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Sat Mar 10, 2007 4:23 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Quách Tấn- Lần gặp cuối cùng

Trong thời gian Tử soạn Cẩm châu duyên và hai vở kịch thơ thì Tử dọn xuống tại xóm Tấn, ở phía đông và cách thành phố Quy Nhơn chừng vài cây số. Lúc ấy Tử uống thuốc cùng một bà thầy ”có môn thuốc gia truyền rất kinh nghiệm”. Ban đầu bệnh Tử cũng bớt. Nhưng, rồi lại trở lại, và trở lại ngay trong khi “giấc mộng tàn”.

Không còn phương chạy chữa. Tử đành vào Bệnh viện Quy Nhơn. Vào khoảng tháng 8-1940.

Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, Tử gác việc văn chương, quay sang nghiền ngẫm ý nghĩa của sự chết. Tử không buồn cũng không sợ. Chàng cho rằng “đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi đến cõi vĩnh viễn”.

Vì vậy tâm hồn Tử trở nên bình tĩnh lạ thường. Ngày ngày Tử đọc kinh cầu nguyện, rồi nằm nhắm mắt lim dim đôi mắt mơ màng quang cảnh cõi u huyền.

Đến tháng 9, sau khi nhà hữu trách tìm thấy quả thực trong máu Tử có sâu, Tử phải vào nằm hẳn bệnh viện Quy Nhơn. Một hôm Quách Tấn được thư Hàn Mặc Tử cho biết sắp vào trại phong (Léproserie) Quy Hòa, bảo Quách Tấn ra Quy Nhơn gặp Tử gấp.

Được thư, Quách Tấn đi liền tàu đêm ra Quy Nhơn.

Sáng chủ nhật, mặt trời chưa mọc, Quách Tấn đã tìm đến bệnh viện Quy Nhơn, tìm đến nhà Tử nằm. Bóng sương còn mờ, nhưng Tử đã ra đứng tựa lan can, hai tay đút vào túi áo. Thấy tôi, Tử mừng rỡ:

Tôi biết thế nào sáng hôm nay anh cũng có ở đây.
Tử vẫn đứng yên nhìn ra sân.
Quách Tấn lại gần: hình dáng Tử không khác lúc chưa vào nhà thương bao lăm.

Các người bệnh khác, khi bệnh tình đã nặng thì tay chân bị co quắp, mặt mũi gồ ghề. Tử không thế. Bệnh chỉ từ nơi tay chân. Còn mặt mũi chỉ nám một vạt lớn nơi phía tay trái, và tai cùng mũi chỉ ửng đỏ hơi hơi.

Nhìn kỹ Tử, tôi thấy Tử hơi gầy và xanh xao hơn trước, nhưng gương mặt lại có phần trong sáng và bình an. Tuy thế lòng tôi vẫn thấy ngùi ngùi. Tôi hỏi:

- Chừng nào anh đi?
- Còn đợi giấy Sứ vào Quy Hòa, nếu không lành mạnh được, tôi cũng sẽ được yên vui hơn ở đây. Ở Quy Hòa, phong cảnh đã đẹp, lại có các bà phước nhân từ, hồn tôi, thơ tôi sẽ được đi vào Đạo được dễ dàng hơn. Vì vậy nên tôi mong đi sớm được ngày nào tốt ngày nấy, chỉ thương chút má tôi.

Tử nghẹn lời. Để giấu vẻ cảm động, tôi quay mặt nhìn nơi khác. Mặt trời đã mọc, lúc này tôi mới để ý cảnh vật chung quanh.
Chữ “Lararet” to tướng treo ở trước mái hiên đánh mạnh vào mắt tôi. Thì ra nơi Tử nằm là gian nhà riêng biệt giành riêng cho những bệnh truyền nhiễm. Trong phòng Tử chỉ kê vẻn vẹn một chiếc chõng nhỏ không mùng! Các phòng khác đều cửa đóng, giường không có bệnh nhân. Bốn bề quạnh vắng... Một luồng khí lạnh chạy khắp người tôi. Tôi rùng mình. Dường Tử đoán biết nỗi lòng của tôi nên nói:

- Hơn tuần nay tôi nằm bên kia. Họ đưa tôi xuống đây mới hai hôm nay. Tôi xin tạm về nhà để chờ giấy đi Quy Hòa, nhưng bác sĩ không cho.
Buồn thương tràn ngập lòng tôi và hiện ra ngoài mặt, mặc dù tôi cố nén. Tử nói:

- Không nên buồn, buồn vô ích. Phải để tâm trí rảnh rang mà lo việc nghìn thu.
Tôi không biết nói sao! Tôi nhận thấy lời nói lúc bấy giờ chỉ là những sáo ngữ.

Gió bấc thổi. Lá sầu đông lạnh lùng bay!
Tử nhìn tôi, tôi nhìn Tử, không nói năng. Hồi lâu, Tử nói với một giọng buồn buồn:

- Tôi có lời nguyện rằng vào Quy Hòa, nếu Chúa ban phước cho tôi lành mạnh, tôi sẽ đốt tập Thơ điên. Nhưng nghĩ lại thơ đã làm lỡ ra rồi, dù có đốt đi cũng không xé (tr150)  được tội lỗi, nên tôi không còn giữ ý định đó nữa. Tuy vậy, cũng không nên để cho người đời thấy được những bí ẩn của lòng mình. Tôi sợ gia đình tôi không theo được ý muốn của tôi, nên tôi nhờ anh thâu hết các bản thảo của tôi đem vào Nha Trang cất giùm. Tôi vào Quy Hòa, nhờ ơn Chúa tôi mạnh được thì chẳng nói chi, bằng tôi có chết đi, thì tôi giao cho anh toàn quyền sử dụng. Bài nào nên anh cho hành thế, bài nào không, anh đã biết rõ. Tôi nhắn anh ra cốt bấy nhiêu thôi.

Tôi xin nhận lời. Tử tiếp:

- Anh đứng đây lâu không nên. Anh hãy đến thăm má tôi và an ủi bà cụ. Những bản thảo của tôi, tôi đã gọi chú Hiếu gói sẵn sàng. Khi anh về nên mang theo nhé. Thôi anh đi đi.

Tôi không nỡ dứt ra đi. Nhưng Tử cúi đầu chào tôi rồi lẳng lặng đi vào phòng, đóng kín cửa lại. Tôi ngậm ngùi ra về, đi thẳng đến đường Khải Định thăm bà cụ.

Bà cụ thấy tôi, vồn vã hỏi:

Con ra khi nào?
Tôi thuật lại việc đến thăm Tử. Bà cụ khóc òa. Tôi cầm lòng không được cũng khóc. Một già một trẻ, trong một căn nhà vắng thiu! Đoạn tôi thưa qua về mấy tập thơ của Tử. Bà cụ nói:
- Nó có dặn bác rồi. Chắc con không ở chơi đến lúc em con đi Quy Hòa được. Thôi để rồi bác tin cho con hay.

Nói rồi bà cụ lại khóc. Lòng mẹ thương con! Thảm quá !
Chiều hôm ấy tôi mang các bản thảo của Tử vào Nha Trang.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Tue Mar 13, 2007 1:59 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Yến Lan- Hàn Mặc Tử, hồi ấy...

Tôi gặp Hàn Mặc Tử trong một hoàn cảnh tình cờ. Hồi ấy trong sinh hoạt văn học có cuộc bút chiến giữa nhóm Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nguyễn Công Hoan, lúc đó đã xuất bản tập truyện ngắn “Kép Tư Bền”. Cuộc bút chiến kết thúc và phần thắng lợi nghiêng về Nguyễn Công Hoan. Đa số tán thành và ủng hộ tác giả Kép Tư Bền. Sau đó để đáp lòng hâm mộ của bạn đọc các địa phương và cũng để làm một cuộc chu du, Nguyễn Công Hoan đi vào miền Trung. Ông đã đến Quy Nhơn. Bạn đọc nô nức đến chào đón và xin chữ ký. Tất nhiên trong đó có Tử. Vì là tác giả, và từng đứng về phía bênh vực, nên Tử sớm thành tri âm tri ngộ của Nguyễn Công Hoan. Không biết Tử dẫn ông đi đến những đâu, chỉ biết là sáng hôm ấy hai người vào viếng Chùa Ông ở Bình Định. Chùa Ông lúc ấy còn có dải tường cao bao quanh cả mặt trước, ngăn cách điện tầm, xa hẳn con đường số 1 chạy ngang. Cửa chính đóng kín, bên trong là cả một thế giới hoa cảnh mát tươi, đi vào phải thông qua cái cửa ngách. Tôi còn nhớ khi cả hai nhà văn vào sân trước, điểm trước tiên là Tử chạy đến cụm hòe hoa đang nở vàng chói, với tay bẻ nột cành đưa cho Nguyễn Công Hoan, và họ cùng tiến lên bậc cấp của cánh cửa hông mở vào chính điện. Tôi ở nhà nghĩa tự và đang làm thơ. Ông cụ thân sinh tôi vốn là từ thừa ở đó, lên hướng dẫn hai người, sau cùng mời hai người vào xơi nước nơi nhà nghĩa tự. Tử thấy tôi cứ ngồi mặc nhiên viết, và dường như có liếc nhìn qua trang giấy, liền rất nhã nhặn lại ngồi bên:

- Xin quấy rầy đôi chút nhé, cậu em. À, mà cậu em đang làm thơ à?
Tôi bẽn lẽn, nhưng không mất vẻ tự hào:
- Vâng, tôi đang tập tành.
- Cậu có bài đăng báo chưa?
- Có một số bài trong tập Bến My Lăng.
Bỗng nhiên Tử lộ vẻ hân hoan:
- Thế thì tôi biết cậu là Xuân Khai, là Yến Lan.
Rồi Tử vỗ vai tôi, nói tiếp luôn:
- Tôi là Phong Trần, là Lệ Thanh.
- Thế là rất hân hạnh được biết. Tôi đọc anh đã lâu ở báo Lời thăm xuất bản ở Lòng Sông, và những bài thơ anh xướng họa cùng cụ Phan Sào Nam từ năm xửa năm xưa.

Tử quay sang giới thiệu tôi với nhà văn Nguyễn Công Hoan. Thế là câu chuyện xoay vào cuộc bút chiến vừa qua, vào tin tức văn học, tin tức sách báo ở Hà Nội, ở Sài Gòn. Khi từ biệt, Tử không quên dặn tôi khi nào đi Quy Nhơn thì ghé lại nhà chơi, và anh để lại mảnh giấy ghi địa chỉ.

Đó là một trạng người nhã nhặn và lịch thiệp. Tôi không ngờ cái bộ ngoài của con người ăn vận sang trọng, chỉnh tề: com-lê tussor-D.liguon Phú Phong, mũ panama màu trắng lụa với ca-vat thắt ngang cổ áo như một ông “má chín”, lại là một nhà thơ viết ra Gái quê với cả một tấm “tình quê” bâng khuâng nồng đượm cũng bốc lên màu rạ vàng, sắc mạ xanh tươi.

Từ đó, cứ mỗi bận có dịp đi Quy Nhơn thì tôi kết hợp đến thăm anh. Có khi kèm với Chế Lan Viên, có khi đi một mình, nhất là giai đoạn anh lâm bệnh. Anh thường tiếp chúng tôi ở số nhà 20 Khải Định. Tôi còn nhớ đấy là ngôi nhà xây để ở chứ không phải theo quy cách nhà có thể mở ra làm cửa hàng buôn bán. Nó dựng trên một khoảng đất chéo nên hàng ba bước vào phòng chính không quay mặt ra đường. Có cổng và tường ngăn. Phòng khách bày biện ít đồ đạc. Cái tôi nhớ nhất là cái đồng hồ treo với tiếng gõ kỳ cạch suốt năm tháng của nó, giữa cơn anh đau ốm, như người lễ sinh đứng đó không xướng lên lễ thức mà chỉ đếm thời gian, từng giọt từng giọt, nhắc với Tử, bằng cách gây nên những xáo trộn tâm tư, có khi thầm thì báo hiệu cái cô đơn đang vây phủ xung quanh anh. Cái thứ hai là bộ ghế bành lùn, rộng và khoẻ bằng ruột mây đan. Mỗi lần chúng tôi đến, ở phòng trong ra, anh đến bắt tay từng người. Đó là lúc bệnh anh mới sơ phát, còn ở dạng nghi ngờ. Về sau thì anh chỉ chắp hai tay chào và khẽ khàng ngồi xuống chiếc ghế kê sát nách cửa vào phòng. Lòng ghế lót bằng một tấm vải cũ gấp lại.

Anh đọc thơ cho chúng tôi nghe, không giải thích, rồi anh ngâm. Nếu ai đã có lần nghe anh ngâm thơ thì mới cảm thấy hết cái cảm giác kỳ lạ lần đầu bắt gặp: nôn nao, nôn nao... và cộng với lời thơ, gây nên một không khí mông lung. Chúng tôi như bị dồn vào một thế giới nào, có suối, có đồi, có bóng dáng những cuộc hành hương, và nhạc điệu cung văn, đồng bóng. Trông anh như cành liễu mùa đông đang bị cơn gió lạnh tuôn về day trở. Giọng nói của anh thì ngọt và mát như dòng sông Nhật Lệ quê anh từ thuở ấu thơ: nó đã được tiếng khen là nuôi dài tất cả những mái tóc để tăng thêm vẻ yêu kiều của lớp người sống Lũy Thầy, Trường Dục nhưng trong giọng ngâm, anh đã biến thành những chuỗi dài đau khổ, cao thấp chen nhau như từng tia lửa bùng lên, như mảnh lụa tươi vàng bị xé vụn. Anh đã lấy xác thịt minh họa cho lời thơ. Có khi chúng tôi chảy nước mắt. Còn anh, anh đã thành một người say. Các lần ngâm thơ của anh đều diễn ra như thế vì những bài thơ ấy đều là những bài xót xa nhất. Đặc biệt là hôm anh ngâm bài Thánh nữ đồng trinh Maria. Xáo trộn trong đau thương, còn có nỗi trìu mến hân hoan kỳ lạ. Chúng tôi có cảm giác như anh bay lên với đôi cánh sải rộng ra, khi vút lần vào mây, khi là là sông bể. Có lúc tưởng như anh ngồi trên lưng con tuấn mã phi nhanh trở về sau một chiến công, thỉnh thoảng dừng lại ngước nhìn suối thẳm, khe sâu rồi mới vượt qua.

Số là, theo anh kể lại, bận ấy người bạn thân thiết nhất là Quách Tấn ở Nha Trang ra, giới thiệu với gia đình, ông cậu của Tấn vốn là một võ sư lừng danh tên là Đoàn Phong. Ông này có môn thuốc gia truyền chữa lành nhiều người mắc bệnh hủi, và Tử đã được tiếp cận, được cho đơn. Thang đầu hiệu quả chưa rõ rệt, đến thang thứ hai thì có biến chuyển bất ngờ. Tử ăn, ngủ thấy ngon, tâm tư thư thái, hết ngứa ngáy, tê buốt. Anh vui mừng quá, gọi mẹ, gọi chị, em, nói cười rối rít và anh bảo rằng: Đó là do có Đức mẹ Đồng Trinh, đã xui khiến anh được như vậy. Bận ấy anh tưởng anh thoát nạn:

Lạy Bà là Đấng trinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế...


Tôi không sắp xếp một cách có hệ thống theo khoa học những trật tự thời gian và địa điểm các cuộc lui tới thăm viếng giữa chúng tôi với Tử. Đó là những cái dễ quên thường tình qua quãng cách quá dài của năm tháng, nhưng cái không thể quên, không có cái gì khác làm cho quên được là cuộc thăm viếng sau cùng với Tử: Đó là cuộc vĩnh biệt nghìn thu, mặc dù anh còn sống với một thời gian nữa.

Một ngày se se lạnh vào cuối tiết tháng chạp. Tôi và Chế Lan Viên đến số nhà 20 Khải Định như thường lệ. Bà cụ thân sinh anh đón ở bực cấp hàng ba ngôi nhà. Cụ vừa mếu máo vừa bảo: Tử đã được giấu ở nơi khác. Chính quyền thành phố ra lệnh bắt đưa Tử vào Quy Hòa. Xin lưu lại vài ba ngày cũng không được. Bà cụ đã gọi một em bé, theo yêu cầu của chúng tôi, dẫn đường đến đó. Hồi ấy Quy Nhơn chưa mở rộng như bây giờ. Lớp người thuộc thành phần lao động, buôn thúng bán bưng và số ít công chức nghèo, nối tiếp nhau chen chúc vào trong khu động cát phía tây thành phố dựng nên nhà cửa sơ sài, tạo thành xóm dân cư đông đúc. Nhiều nhà không có nền, người đi lội trong cát. Những mái lều xoan, tre xiêu vẹo được phủ lên những tấm mái bằng tranh rạ, thỉnh thoảng mới có nhà lợp tôn hoặc ngói vẩy. Lối đi vào do thế đứng không trật tự của lều chái, thành ra chỗ phềnh, chỗ eo và quanh co hun hút. Tử ở trong một lều tranh thuộc vào loại tồi tệ nhứt, nhì ở đây. Tiếp chúng tôi, anh ngồi ở bên trái cái bàn, nơi có lối thông ra phía sau, một ngăn ô nho nhỏ kê chiếc giường chõng. Bàn là một tấm ghép hai lá gỗ thùng đặt lên một chân bàn cũ, chân kia là khúc củi còn nguyên nhánh nhóc róc xơ. Hai chân kia dựa vào hai cây trảy chống thẳng lên mái nhà cột. Đây là nhà của một bác phu xe kéo tay (hay là lao công bốc vác gì đó) hôm ấy chủ nhà đi vắng. Một nỗi quạnh hiu đè nặng lên lòng. Tử có vẻ mệt nhọc, tư lự, nói ít và mỗi câu nói có vẻ trăn trở của sự cố gắng bình thản. Chúng tôi biết là anh tránh cho chúng tôi những lo phiền cho sức khỏe. Nhìn anh lại cứ nhớ mãi đến câu thơ trong bài Lưu luyến:

Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi...


Những phút im lặng nhìn nhau nhiều hơn trò chuyện. Cho đến giờ tan tầm, khu động trở nên ồn ào tấp nập. Em Hành đã về nhà và xách cái cà-mèn từ lúc nào chúng tôi không hay, vì lúc ấy tôi và Chế Lan Viên ngồi trên khúc tre cán ngang hai chân cột làm ngạch cửa, day lưng ra phía ngoài. Và Tử ra dấu có ý bảo là đã trưa và trời nắng gắt. Hai chúng tôi đứng dậy. Mỗi người đến cầm một bàn tay anh, không dám siết chặt vì sợ anh đau thêm cả phần xác. Sau này lục ra trong đống di cảo, thấy có bài thơ Những giọt lệ, không rõ anh viết trong cảm xúc nào, nhưng tất cả những điều anh viết trong ấy chẳng khác gì những tình huống trong cuộc chia tay lần ấy với chúng tôi.

Giờ đây, tại nơi anh đã vặn thắt tâm hồn ra máu để viết nên những bài thơ rung động đến tận cùng sâu thẳm lòng người, tôi tưởng niệm anh, tưởng niệm một Hồn thơ. Sở dĩ tôi nhấn mạnh chữ “hồn” vì thơ của Hàn Mặc tử có cái thế mạnh nhất để tồn tại là cái hồn của nó.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject: Re: HÀN MẶC TỬ - HƯƠNG THƠM VÀ MẬT ĐẮNG (Toàn tập)
PostPosted: Tue Mar 13, 2007 2:26 am 
Offline
Năng khiếu
Năng khiếu

Joined: Sat Mar 03, 2007 3:39 am
Posts: 52
Nguyễn Văn Xê

Nhớ Hàn Mặc Tử
(Trích hồi ký)

Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hòa những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào. Mẹ Juetta người Pháp phụ trách nhà thương Nam đẩy chiếc xe đi băng bó các vết thương của từng bệnh nhân với những thao tác nhẹ nhàng, và nụ cười tươi vui, lời thăm hỏi đầy thân ái. Bỗng có tiếng thắng xe ô tô trước cổng. Các bệnh nhân người nhìn qua cửa sổ, người nhanh chân chạy ra gần chiếc xe. Anh em còn trong nhà thì bàn tán "Chà, ai vô đấy? Già hay trẻ? Bệnh nặng hay nhẹ?". Còn mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay bác y tá đứng tuổi với nụ cười và lời cảm ơn. Ngoài sân, bác tài xế già cũng đã mở cửa, nhưng người bệnh đó như bị tê hai chân nên gắng gượng lắm mới đứng lên được, đầu gối run run bước từng bước một, tay bám vào xe cho khỏi ngã. Mẹ juetta: "Mau đưa tay cho mẹ đỡ xuống con". Mẹ nói và bước tới xốc đỡ người bệnh xuống đất một cách nhẹ nhàng. Theo bàn tay dìu đỡ của mẹ Juetta, người bệnh cố đi như lết, đầu cúi xuống trước bao cặp mắt dán theo cái hình hài gầy gò, nhỏ thó: Kia là ai? Từ đâu tới? Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn hồ sơ và nói: "Trí, đây là chỗ của con". Tôi ôm mớ hành lý gói bằng giấy báo cũ của Trí để lên đầu chiếc tủ con rồi tiếp tay với anh lao công trải chiếu chăn cho Trí. Làm xong tôi nói với Trí - khi đó, đang đứng vịn vào giường run run - "Anh Trí lên giường nằm cho khỏe". Trí gật đầu rồi rút đôi chân sưng đen ra khỏi đôi ba ta trắng cũ rích đã ngả sang màu vàng xám có mùi hôi thối - đã bị đạp nhẹp ở cuối gót để thành dép lê dễ xỏ chân.

Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: "Xin mẹ để con tự bưng uống được". Mẹ lắc đầu nói: "Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm con phỏng tay". Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa. Mẹ nói: "Con nằm nghỉ, chút nữa ăn cơm" và Trí lễ phép: "Con cảm ơn mẹ". Khi mẹ Juetta quay về phòng thuốc rồi, mọi người quan sát thấy Trí mặc đồ bà ba trắng, ngoài khoác chiếc veston màu trắng bám đầy bụi đường, cổ choàng chiếc khăn lông trắng. Trí trang phục rườm rà thế, nhưng vẫn không sao che nổi tấm thân gầy còm, ốm yếu. Trí để nguyên quần áo nằm lên giường lim dim mắt. Đến 11 giờ tiếng trống báo hiệu giờ cơm trưa, tôi đến bên giường Trí nói: "Anh Trí ra dùng cơm trưa". Trí mệt nhọc gượng dậy rồi nói: "Cảm ơn anh, tôi sẽ ra" và rồi khập khễnh lê từng bước ra bàn ăn và cố gắng ăn nửa chén cơm chan canh rau. Tôi đã thấy ngay là Trí không đả động đến món cá biển tuy hôm ấy cá rất tươi ngon. Mẹ Juetta thấy Trí ăn quá ít nên đến ép Trí cố gắng ăn thêm, nhưng Trí vẫn một mực chối từ: "Thưa mẹ, cám ơn mẹ, con đã no lắm rồi". Sau bữa ăn, tôi đem đến cho Trí một chén trà nguội, và đưa Trí về giường, rồi tôi mới về nhà làng.

15 giờ hôm ấy, tôi trở lại thăm và trò chuyện với Trí, để tìm hiểu. - "Tôi là Nguyễn Văn Xê, người Huế, vào trại đã hai năm, hiện đang giúp việc cho các mẹ". Trí cười - "Tôi là Trí, Nguyễn Trọng Trí, chắc anh Xê nghe giọng nói cũng biết tôi là người cũng ở gần Huế". Tôi cười vui - "Vậy thì anh Trí Quảng Bình hay Quảng Trị phải không?" Trí gật đầu cùng với tiếng cười. Tôi lại nói: "Tôi còn nhỏ lắm, mới 21 tuổi thôi, xin anh Trí hãy gọi bằng em cho thân mật". Trí lắc đầu nói: "Anh Xê đừng quan tâm chuyện tuổi tác, tôi cũng còn nhỏ mà". Tôi lại tò mò: "Vậy anh Trí năm nay bao nhiêu tuổi?". Trí nói nhỏ vừa đủ tôi nghe - "Hai mươi tám". Tôi cười vui nói: "Vậy là làm anh đúng rồi". Trí không chấp nhận hay phủ nhận, mà lại hỏi tôi: - "Nhà anh Xê ở mô?" Tôi trả lời ngay: - "Ở bên Lào, tỉnh Savanakhet lận, còn anh?" Trí có vẻ hơi xúc động trong giọng nói: "Nhà tôi ở ngay Quy Nhơn". Nghe vậy tôi không giấu được sự ngạc nhiên, liền hỏi: "Ở ngay Quy Nhơn mà anh không vào đây ngay chữa trị?" Sau câu hỏi này của tôi, thì Trí lộ vẻ xúc động với đôi mắt long lanh buồn thảm: - "Tôi nghĩ không bao giờ mình bị bệnh này anh Xê à". Tôi buột miệng nói ngay: - "Uổng quá!". Như thấy mình lỡ lời nên tôi vội vàng nói thêm: "Nhưng cũng không muộn màng gì đâu anh Trí, anh yên tâm chữa trị vài tuần thì sẽ thấy khỏi ngay". Trí lúc này thật buồn, nói như bị nấc cục: "Tôi tuyệt vọng rồi hy vọng, hy vọng rồi tuyệt vọng đã mấy năm nay rồi". Thấy thế nên tôi vội an ủi: "Bây giờ anh phải hy vọng vì chữa thầy đã đúng chỗ rồi". Trí cũng rầu rầu nói với vẻ mặt không tin tưởng: "Khắp các tiệm thuốc Bắc và các ông bà thầy thuốc Nam ở Bình Định tôi đã chữa không sót một người, mà càng ngày thân thể ra thế này". Thấy câu chuyện không ngờ làm cho Trí buồn lòng, tôi nói vài lời an ủi Trí rồi tạm biệt Trí đi về cho Trí được thảnh thơi nghỉ ngơi tránh xúc cảm.

Thấm thoát thời gian trôi mau, Trí vào Quy Hòa đã được ba tuần lễ. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tụy của các nữ tu dòng thánh Francois d’Assise mà đặc biệt là mẹ Juetta phụ trách nhà thương Nam là người lo lắng cho Trí nhất, nên bệnh tình Trí thuyên giảm rõ rệt. Trí và tôi thường nói chuyện với nhau và có lần Trí thổ lộ tâm tư đôi chút: "Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người, nên tôi được hưởng cái bình an của nội tâm, cái thanh cao của nguồn vui tưởng như đã chết trong tôi khi còn ở thôn Tấn đầy đau khổ, nghèo túng, cô đơn, không một ai đến an ủi, săn sóc, dù là người thân quyến".

Cả buổi trưa cho đến tối ngày 30-10-1940 tôi bận việc, nên sáng hôm sau mới hay Trí đi kiết đến kiệt sức nên không thể đi nhà thờ. Khi tôi đến thăm Trí thì thấy anh phờ phạc, xanh xao nhiều lắm, đề nghị xin mẹ Juetta cho anh vào phòng liệt cho tiện. Trí có nói với tôi là từ khi mắc bệnh cũng như khi vào Quy Hòa ngày ngày Trí ăn thịt heo nạc kho tiêu với cơm hoặc cháo. Tôi để ý điều này đúng y như vậy, cứ mỗi tuần lễ thì có anh Hành là người nhà mang từ Quy Nhơn vào thịt heo kho tiêu, thứ thịt heo nạc không mỡ được ram mặn đựng trong chiếc cà mèn nhôm. Rồi suốt hơn một tuần lễ từ 30-10-1940 đến 7-11-1940 bệnh kiết lỵ của Trí vẫn không giảm, mà có phần tăng thêm, nên trông Trí người khô đét, gầy guộc xanh xao đến thảm não.

Đêm 8-11-1940 phiên ca trực của tôi. Lúc 21 giờ Trí đột nhiên ngồi dậy lấy từ trong áo gối ra hai tập giấy đánh máy đóng rất đẹp rồi hỏi tôi: - "Anh Xê đã có tình yêu chưa?". Câu hỏi bất ngờ quá, nhưng tôi vẫn trả lời: "Từ nhỏ tới giờ tôi chỉ có một tình yêu duy nhất đối với Thiên Chúa mà thôi". Trí gật đầu rồi lấy cây bút chì cùn trong túi áo veston ra ghi dòng chữ như sau: Thơ cầu nguyện đề tặng anh Xê - François Trí. Rồi anh ghi tiếp tập thơ Đời đề tặng anh Phạm Văn Trung, và rồi đưa tôi cả hai tập nói: - "Thơ cầu nguyện là tặng anh, còn thơ đời là tặng anh Trung, nhờ anh đưa giúp". Thú thật, lúc ấy không hiểu sao tôi không thể nói một lời, dù là một lời cảm ơn thông thường nhất, tay cứ mân mê hai tập thơ mỏng độ ba bốn mươi trang.

Đêm ấy Trí đi tiêu rất nhiều lần, mỗi lần đi có một chút đờm và vài giọt máu, nên tôi thấy Trí mệt lả đến đi không nổi, tôi phải dìu đi rồi dìu về giường nằm. Đêm càng về khuya thì sức tôi cũng mệt, nên tôi đã ngủ quên chắn cả lối đi, không ngờ trong lúc ấy Trí tuột xuống giường đi không nổi…

Sáng 9-11-1940, sau khi khám bệnh, mẹ Juetta bưng chén thuốc cho Trí uống xong nói: "Chiều nay có xe đi mời cha tuyên úy vào xức dầu cho con". Trí gật đầu và dạ rất nhỏ.

Sáng 10-11-1940 lúc 6 giờ 45 cha cho Trí chịu phép xức dầu và rước lễ. Nguyên ngày hôm ấy Trí vẫn đi tiêu nhưng tôi thấy tinh thần Trí tươi tỉnh khi nói chuyện với tôi. Tôi hỏi Trí có cần gì thì thành thật bảo tôi. Trí đọc cho tôi hai địa chỉ cần báo tin khi Trí đã chết:
1. Trần Thanh Mại-Trésor-Huế.
2. Quách Tấn-Resident-Nha Trang.

Tôi hỏi Trí có cho gia đình biết tin không, thì Trí nói:-"Rồi anh Hành sẽ vào, và dĩ nhiên mẹ và gia đình tôi tất biết". Đêm nay tôi trực với mẹ Juetta và xơ Julienne. Chúng tôi có đến thăm Trí ba lần, và lần thứ ba lúc khoảng ba giờ thì xơ Julienne cho biết từ giờ đến sáng Trí sẽ chết. Ngày 11-11-1940 thì Trí đã tắt thở. Sau khi báo tin cho các mẹ, tôi và anh em cùng giúp thay quần áo cho Trí và khâm liệm. Xong xuôi đâu vào đó thì anh em bệnh nhân đến đọc kinh cầu nguyện. Khi ấy tôi thu gọn "tài sản" của Trí gồm một bộ bà ba trắng cũ, một veston cũ, một ba-ta sắp hư, một gối con con, một cuốn sách dày 200 trang (của Rousseau) và một bài văn tiếng Pháp viết bằng bút chì, mà lúc thay đồ cho Trí, tôi lấy ở trong túi, xem qua, đó là bài văn "La Pureté de Iâme" (Sự trong sạch tâm hồn). Và tuyệt nhiên không có một xu hào nào trong túi Trí từ khi vào cho đến chết.

Trên đường trở về nhà thương, vừa đi tôi vừa suy nghĩ về Trí, về sự khiêm nhường của Trí là từ ngày vô cho đến chết Trí chưa hề nói một tiếng Pháp với bất cứ mẹ nào. Lúc nào tôi cũng là người thông ngôn. Biết Trí làm thơ, viết văn thì tôi lại càng áy náy hơn, nhưng sự thật tôi vẫn chưa hề biết Trí là nhà thơ có tiếng tăm ngoài đời.

Sau khi Trí chết chôn ba ngày thì anh Hành, người nhà từ Quy Nhơn theo thường lệ hàng tuần đem thịt heo nạc kho tiêu vào cho Trí, mới được tin Trí qua đời. Qua ngày hôm sau, mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Quy Hòa. Tôi hướng dẫn gia đình Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc đứa em thương trong một buổi chiều mùa đông se se lạnh. Mẹ Trí khóc thật nhiều rồi ôm tôi nói lời đầy uất nghẹn: - "Xê ơi, bà đã già trước tuổi vì đời của bà đã mấy lần tang tóc, đã rơi không biết bao nhiêu là nước mắt!".

Giờ đây, ôn lại ngày mẹ và chị Lễ thăm mộ Trí làm tôi chợt nhớ đến câu thơ Hàn Mặc Tử:

Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.


Tôi đã chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.

Sau khi Trí chết, tôi theo di ngôn gửi thư báo tin ngay cho Trần Thanh Mại-Trésor-Huế, và Quách Tấn-Résident-Nha Trang. Một ngày cuối hạ 1941, Bùi Tuân đã vào thăm tôi và thăm mộ Trí. Đứng trước mộ, Bùi Tuân nói: "Sống là một cuộc du hành và chết là trở về quê thật. Tôi đi viếng mộ Trí rồi một ngày kia tôi sẽ chết". Trong dịp này tôi đã trao tập thơ cho Bùi Tuân.

Và cũng vào một ngày cuối hè 1941, tôi đang ở nhà riêng thì có người xuống gọi bảo tôi lên hướng dẫn cho thân nhân anh Trí ra thăm mộ. Tôi vội vã lên nhà dòng, gặp một đôi thanh niên nam nữ, rồi hướng dẫn họ đi ra nghĩa trang. Có điều tôi lấy làm lạ là người thanh niên thì im lặng cúi đầu đếm bước, người thanh nữ kia thì khóc tự lúc nào nên tôi không thể "tò mò" là gì của anh Trí. Đến mộ anh Trí rồi tôi quay về ngay, vì bận nhiều công việc (bây giờ nhờ Phạm Xuân Tuyển trực tiếp gặp bà Mai Đình tôi mới biết người thanh nữ khóc nức nở đó là bà Mai Đình và người thanh niên là bạn trai làm ngành đường sắt ở Quy Nhơn "hộ vệ" bà vào Quy Hòa).

Đầu mùa thu 1941, tôi đang làm việc thì mẹ Nhì Mariest Venant, Phó Giám đốc gọi tôi lên nhà dòng gấp. Mẹ chỉ người đang ngồi trong phòng khách là một thanh niên tuấn tú, ăn vận âu phục trắng trông rất lịch sự: "Đây là ông Trần Thanh Mại ở Huế vào gặp con". Tôi gật đầu chào thì ông Mại lịch sự đứng dậy bắt tay tôi nói: - "Rất hân hạnh và vui mừng được gặp anh Nguyễn Văn Xê". Và tôi, qua cái xiết tay của ông Mại cũng đáp lễ:-"Dạ, tôi cũng rất hân hạnh được gặp ông".

Chúng tôi đi thăm Trí, và trên đường đi ông Mại hỏi tôi rất nhiều về Trí, từ lúc mới vào cho đến khi yên tĩnh ngàn thu. Vì ông nói chính mẹ Juetta đã nói rằng chỉ có tôi là biết rõ nhất về sinh hoạt của Trí và hiện tôi là người đang giữ tập thơ di cảo của Trí. Tôi thủy chung như nhất, kể rành rọt khúc chiết về những ngày Trí ở Quy Hòa cho ông Mại nghe, vì tôi nghĩ chính Trí đã căn dặn ở "di ngôn" là phải báo ngay cho Trần Thanh Mại và Quách Tấn là Trí đã chết ngày tháng nào. Sau khi nghe tôi kể rồi, thì ông Mại đứng trầm tư mặc niệm trước mộ Trí. Qua những phút suy tưởng, ông Mại hỏi tôi:
-"Anh Xê, tập thơ cầu nguyện hiện nay là của anh nhưng vì sự nghiệp thi ca của Trí ngày mai, nên tôi xin anh cho tôi mượn một thời gian ngắn để làm tài liệu nghiên cứu". Tôi sốt sắng trả lời ông Mại ngay
-"Thưa ông, tôi rất sẵn lòng đưa ngay cho ông mượn nhưng rất tiếc là tôi đã trao cho dượng rể tôi là nhà văn Bùi Tuân hồi cuối hè vừa rồi". Ông Mại nghe tôi nói rồi gật đầu, nhưng nét mặt biểu hiện nhiều suy nghĩ, nên ông lại hỏi tôi tiếp:
-"Còn tập gọi là thơ đời của Trí thì đề tặng cho ai, như lúc nãy anh nói với tôi". Tôi trả lời:
-"Đó là anh Phạm Văn Trung, cũng là một bệnh nhân ở đây và có mở một quán hàng nhỏ tạp hóa". Ông Mại nhíu mày hỏi tôi như ngạc nhiên:
-"Anh Xê có hiểu nguyên nhân nào Trí đã tặng anh Trung tập thơ đời không?". Tôi đã rõ là ông Mại hiểu lầm nên tôi giải thích:
-"Sở dĩ tập thơ đời tặng anh Trung vì Trí hỏi tôi yêu đời hay yêu đạo thì tôi trả lời là yêu đạo, nên Trí mới ghi tặng tôi tập thơ Cầu nguyện, và dĩ nhiên tập thơ Đời thì Trí phải đề tặng anh Trung". Nhưng ông Mại vẫn còn thắc mắc: "Ông chủ quán tên Trung có liên quan gì đến Trí mà sao tôi không nghe các mẹ khi nãy nói đến?". Tôi phải thêm một lần nữa giải thích: "Anh Trung có mở quán bán tạp hóa, nên từ ngày Trí vào cho đến chết, anh luôn luôn chăm sóc bằng cách cung cấp cho nước trà sớm trưa chiều tối, và thỉnh thoảng đôi ba ngày gửi ít bánh kẹo cho Trí ăn chơi". Lúc này ông Mại gật gật đầu: "À! À! Ân đền oán trả mà, tôi hiểu, tôi hiểu lòng Trí lắm". Và sau khi ở nghĩa trang về, tôi đưa ông Mại đến quán anh Trung và sau khi nghe lời giới thiệu đôi bên của tôi và lời yêu cầu của ông Mại, thì anh Trung mở ngăn bàn, ngăn tủ kiếm để cuối cùng anh Trung đưa ra một tập giấy pelure trắng mỏng đã bị xé rách hơn phần nửa. Anh Trung nhìn đôi tay ông Mại "nâng niu" lật từng trang mà lắp bắp như người có lỗi: -"Thưa thầy tôi không ngờ nó quý để mà giữ cẩn thận, nên tôi dùng bừa bãi quá, xin thầy tha lỗi cho!". Ông Mại cầm tập thơ xem tới xem lui rồi hỏi:-"Các trang bị xé rách anh còn giữ được không?". Anh Trung trả lời nhỏ như người bị bệnh:-"Không dám giấu gì thầy, tôi thấy giấy tốt quá nên vấn thuốc hút và dùng gói tiêu, tỏi bán hàng".
(...)

Sau cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thì ở bệnh viện Quy Hòa xảy ra nhiều lộn xộn nên tôi xin xuất viện. Ngày 17-10-1945, tôi ở ga xe lửa Quy Nhơn chen lấn mua vé đi Sài Gòn. Sau khi mua xong vé tôi đi lên toa hành khách thì thấy người và hàng chật như nêm, đứng nhìn dáo dác một hồi, tôi bắt đầu lách từng người và đến bên một ông khách mặc âu phục rất chỉnh tề, lịch sự, và có để kế bên một chiếc cặp da lớn. Tôi lễ phép hỏi: -"Thưa ông, nếu có thể cho tôi ngồi ở chiếc cặp da này?". Ông khách quan sát tôi, nhưng không nói chỉ lẳng lặng cầm chiếc cặp da lên cho tôi ngồi xuống đó. Khi xe lửa bắt đầu chuyển bánh thì ông khách mở cặp lấy một quyển sách ra và xoay lưng ngang lại đọc, nên tôi được dịp coi ké. Những dòng chữ đầu ấn vào mắt tôi run lên vì quá rõ ràng: "Thơ cầu nguyện đề tặng anh Xê-François Trí". Từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, trừ lúc ăn ngủ, tiêu tiểu, còn thì giờ khác thì tôi tranh thủ "coi cóp", và lúc ông khách không xem thì tôi mượn coi. Khi đến ga Mường Mán của Phan Thiết thì tôi đã xem hết quyển "Thân thế và thi văn Hàn Mặc Tử" của Trần Thanh Mại. Nhờ may mắn xem cuốn Hàn Mặc Tử đó nên tôi mới biết anh Trí là nhà thơ Hàn Mặc Tử đã có danh tiếng lúc chưa mắc bệnh và ông Mại là một nhà văn nghiên cứu phê bình, viết truyện ký…
***

Mường tượng lại sinh hoạt của Trí trong những ngày sống ở Quy Hòa, tôi thú thật chưa bao giờ nghe Trí nhắc đến một nàng con gái nào, chứ đừng nói là kêu gào, than khóc, nhớ thương, mộng tưởng như thơ Hàn Mặc Tử. Và tôi cũng chưa hề thấy Trí khóc lần nào dù chỉ là một giọt lệ âm thầm. Mà nếu có chăng thì đó là tiếng khóc ở thời còn ở ngoài đời hoặc họa có chăng thì chỉ là sự giấu giếm nơi lòng Trí mà thôi. Nói đến cái chết thì tôi thấy Trí rất tỉnh táo, không lo sợ mà sốt sắng dọn mình chứ không như những lời thơ ảm đạm thê lương, luôn bị tử thần ám ảnh, hù dọa ngày vĩnh biệt nên lòng luôn luyến tiếc trần thế mà Trí đã làm lúc chưa vào Quy Hòa. Và trong những ngày ở Quy Hòa tôi cũng không bao giờ hình dung được một tấm thân nhỏ thó, gầy còm là một bợm nhậu hay ít nữa cũng là một người biết uống rượu. Thế mà giờ đây đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta thấy nhan nhản những từ say và say. Còn nói đến cử chỉ hành động bộc lộ ra ngoài mà tôi và mọi người thấy rõ ràng nhất là Trí trong những ngày giờ biết mình sắp chết thì rất sốt sắng lo về phần hồn của tôn giáo nên Trí rất thích nói về Đức Mẹ Maria đầy ân phước.


 
 Profile Send private message  
 
Display posts from previous:  Sort by  
 [ 42 posts ]  Go to page Previous  1, 2, 3

All times are UTC


Who is online

Users browsing this forum: Alexa [Bot] and 0 guests


You can post new topics in this forum
You can reply to topics in this forum
You cannot edit your posts in this forum
You cannot delete your posts in this forum
You can post attachments in this forum

Jump to:  
Powered by phpBB © 2002, 2006 phpBB Group
[ Time : 0.131s | 14 Queries | GZIP : Off ]