by Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:10 am
II. BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885 - 1945)
1. Bộ máy quản lý Nam triều
Trước hết cần khẳng định một điều là từ khi thực dân Pháp đặt Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa, thì quyền lực của Nam triều đối với Nam kỳ coi như đã hoàn toàn chấm dứt. Còn đối với Bắc kỳ (3.6.1886) thì bãi bỏ chức Kinh lược sứ Bắc kỳ, chuyển giao toàn bộ chức năng của Kinh lược sứ vào tay Thống sứ Bắc kỳ ngày 26.7.1897), thực dân Pháp cũng đã loại trừ quyền lực của Nam triều ra khỏi địa bàn Bắc kỳ. Bởi vậy, tuy “Chính phủ Nam triều” vẫn được duy trì bộ máy chính quyền trên cả 2 miền Trung - Bắc Việt Nam, nhưng thực chất chỉ hạn chế trong phạm vi Trung kỳ mà thôi, và hệ thống chính quyền đó được trải dài qua 3 cấp trung ương, tỉnh và xã. Nếu như triều đình nhà Nguyễn bị thực dân Pháp khống chế một cách nhanh chóng và lộ liễu, thì sự lũng đoạn của người Pháp đối với guồng máy chính quyền phong kiến địa phương tỏ ra muộn hơn và tinh tế hơn.
Bình Định thời kỳ 1885 - 1945 là một tỉnh lớn có địa bàn chiến lược quan trọng ở Trung kỳ nên cũng không nằm ngoài sự chi phối và quản lý của bộ máy chính quyền Nam Triều.
* Cấp tỉnh: Đứng đầu tỉnh Bình Định là một viên Tổng đốc (hàm Chánh nhị phẩm) chuyên lo việc dân sự lẫn quân sự, khảo hạch quan lại... và phụ trách chung giúp việc có 1 Bố chánh đặc trách về thuế khoá, đinh điền, lính tráng và ban bố các mệnh lệnh của triều đình về các địa phương trong tỉnh (hàm Chánh tam phẩm). Một Án sát thì coi việc hình luật và kiêm thêm công tác bưu trạm (hàm Tổng tam phẩm). Lúc đầu cơ quan làm việc của Tổng đốc đóng ở thành Bình Định (nay là thị trấn An Nhơn), đến năm 1935 mới dời về đóng ở Công Quán (nay là khu vực đồn công an phường Trần Hưng Đạo). Tại Công Quán là nơi làm việc của các Ty Phiên và Ty Niết, còn vị Tổng đốc làm việc ở toàn Đốc lý (Ngã ba đường Trần Bình Trọng và Marechal Foch). Tổng đốc ở tỉnh Bình Định vào giai đoạn lịch sử cuối cùng trước khi nổ ra cuộc Cách mạng vào tháng 8/1945 là Phạm Phú Triết. Chính Phạm Phú Triết đã trao lại ấn (khuôn dấu) cho lực lượng nhân dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại TP. Quy Nhơn chiều ngày 23.8.1945(24). Ngoài ra còn có các cơ quan khác tỉnh Bình Định như: Ty Lễ Sinh, Ty Chiêm Hậu, và Ty Lương Y vẫn duy trì và tiếp tục làm việc. Năm 1868 vua Tự Đức ấn định số lượng nhân viên làm việc ở các cơ quan tỉnh Bình Định gồm:
+ Ty Chiêm Hậu: 1 Chiêm Hậu, 2 vị nhập lưu.
+ Ty Lương Y: 1 y sinh, 6 y thuộc.
+ Ty Lễ Sinh: 1 tự thừa ở lễ sinh hiệu, 10 lễ sinh (Chiêm hậu vị nhập lưu, y thuộc, lễ sinh 3 hạng ấy thôi không cấp lương.
* Cấp phủ huyện: Dưới quan đầu tỉnh là hệ thống quan lại ở các phủ , huyện, đạo, châu. Đứng đầu mỗi phủ là quan Tri phủ, huyện có quan Tri huyện, đạo thì có quan Chánh Quản đạo, hoặc Quản đạo, châu có quan Tri châu. Các chức Chánh Quản đạo, Quản đạo, Tri châu, phó Tri châu nếu chưa có người dân tộc thiểu số đảm nhiệm thì có thể do Tri phủ hoặc Tri huyện người kinh nắm giữ. Đối với những đạo và châu có địa bàn rộng, thường có thêm chức Bang tá để giúp việc cho Chánh Quản đạo hoặc Tri châu cai trị các vùng xa đạo lý, hoặc Châu lý. Ngoài ra có thể có thêm có các chức Phủ úy, Huyện úy, Châu úy phụ trách việc trị an tại những vùng quá rộng khó kiểm soát.
Năm 1885 Bình Định có 2 phủ là Hoài Nhơn và An Nhơn.
+ Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Cát và Phù Mỹ.
+ Phủ An Nhơn có 2 huyện Tuy Viễn và Tuy Phước.
Đứng đầu phủ là Tri phủ (hàm ngũ phẩm), phủ lắm việc có thêm một Đồng Tri phủ (Chánh lục phẩm).
Bên cạnh việc phân chia trên, triều đình Huế còn căn cứ vào số huyện thuộc hạt, cụ thể là địa bàn quản lý nhiều hay ít huyện để phân thành các loại Phủ trung khuyết và giản khuyết.
Thông thường có một Tri phủ kiêm quản một huyện (không đặt huyện thừa), còn lại mỗi huyện có một Tri huyện (hàm ngũ phẩm) đứng đầu.
Phủ An Nhơn và Hoài Nhơn ở tỉnh Bình Định thuộc diện này, Tri phủ Hoài Nhơn kiêm Lý huyện Phù Cát, Thống hạt các huyện Phù Mỹ và Bồng Sơn. Tri phủ An Nhơn kiêm Lý huyện Tuy Viễn, Thống hạt huyện Tuy Phước.
Đối với huyện Bình Khê, năm 1888 triều đình Huế cắt 10 thôn Tổng Phú Phong, 8 thông Tổng Mỹ Thuận cùng 28 thôn mới mộ khẩu chia làm 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Thuận Tuyền, An Khê và Tân Phong đặt làm huyện này, thuộc phủ An Nhơn thống hạt. Đứng đầu huyện có một viên Tri huyện lãnh đạo mọi mặt về dân chánh. Các phụ tá của viên Tri huyện gọi là “lại mục”, bên dưới có một số nhân viên gọi là “thừa biện” hoặc “thừa phái”.
Về mặt bảo an, bảo vệ cơ quan huyện và sai phái trong việc công thì có một Lệ Mục (gọi là Đội Lệ), dưới có một số lính. Huyện chia làm nhiều tổng, đầu mỗi tổng có một vị Chánh tổng lo việc dân chính .
* Cấp tổng xã: Đơn vị hành chính dưới phủ huyện còn có cấp tổng. Tổng là đơn vị hành chính xuất hiện từ thời Lê và được triều Nguyễn duy trì. Tổng như là một cấp trung gian giữa phủ, huyện và các cơ sở xã, thôn. Đứng đầu mỗi tổng có một Chánh tổng, sau gọi là Cai tổng và có thêm Phó tổng. Cai tổng không do dân bầu ra như Xã trưởng và cũng không được nhà vua bổ nhiệm như Tri phủ, Tri huyện. Tiêu chuẩn để cân nhắc đó là tài năng và phẩm chất. Quan Tri huyện và Tri phủ đề nghị, và các quan Lưu thủ (dinh), Trấn thủ (trấn) bổ nhiệm. Chánh tổng là cánh tay vươn dài của phủ huyện đến xã thôn. Nhiệm vụ Chánh tổng (Cai tổng) là thúc lương tiền, tuần phòng trộm cắp ở các xã trong địa bàn của tổng.
Cấp xã là đơn vị hành chính cơ sở được các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm. Triều Nguyễn rất chú ý tổ chức chính quyền đơn vị hành chính cấp xã. Đại bộ phận dân cư, nơi cung cấp chủ yếu nhân lực và vật lực cho Nhà nước là xã thôn. Do đó việc thịnh suy của một triều đại thường gắn liền với việc tổ chức, quản lý xã thôn.
Xã là cấp hành chính nhỏ nhất, căn bản nhất trong guồng máy cai trị của chính quyền triều Nguyễn. Nhiều xã hợp thành tổng, nhiều tổng hợp thành phủ hay huyện.
Bộ máy hành chính cấp cơ sở lúc đầu chủ yếu gồm Xã trưởng. Xã trưởng là người đứng đầu làng xã về mặt hành chính. Giúp việc cho Xã trưởng là Thôn trưởng, mỗi xã có thể có từ 1 đến nhiều Thôn trưởng tuỳ thuộc vào quy mô lớn nhỏ của mỗi xã. Chế độ Xã trưởng, Thôn trưởng tồn tại khoảng 3 thập niên đầu thế kỷ XIX. Năm 1828 Minh Mạng có một số thay đổi trong bộ máy hành chính làng xã. Chức Xã trưởng được thay thế bằng chức Lý trưởng, bãi bỏ chức Thôn trưởng, đặc chức Phó Lý trưởng. Mỗi xã chỉ đặt 1 Lý trưởng và chức Phó Lý trưởng nhiều nhất cũng chỉ được 2 người.
Lý trưởng được làng xã bầu lên theo nguyên tắc dân chủ. Tiêu chuẩn để ứng cử vào chức vụ này phải là người “vật lực cần cán”, nghĩa là phải có số tài sản nhất định và phải có đức tính siêng năng cần mẫn. Từ năm 1883 cho đến hết thế kỷ XIX, thậm chí vào khoảng thời gian đầu thế kỷ XX, bộ máy chính quyền cấp xã ở tỉnh Bình Định về cơ bản vẫn giữ nguyên như trước (1828). Hội đồng Kỳ mục là bộ máy quản lý xã thôn truyền thống, bao gồm những người đang sinh sống tại xã hoặc có tên trong sổ đinh của xã, gọi chung là quan viên hàng xã. Họ gồm các chức sắc, quan lại về hưu, những người có đỗ đạt, các tân cựu Chánh tổng hoặc Phó tổng, các cựu Lý trưởng hoặc Phó lý... Đứng đầu Hội đồng Kỳ mục là một vị Tiên chỉ, và một hoặc 2 Thứ chỉ. Tiên chỉ và Thứ chỉ được bầu ra tuỳ theo tập quán của từng xã, cụ thể: Xã trọng hoạn thì cử người làm quan đã về hưu hoặc tại chức có cấp bậc cao nhất, xã trọng phẩm hàm, thì cử người có phẩm hàm cao nhất, xã trọng khoa cử thì cử người đỗ bằng cấp cao nhất... Trong trường hợp có nhiều người giữ chức vụ quan trường ngang nhau, có phẩm hàm ngang nhau hoặc có bằng cấp khoa trường ngang nhau, thì dựa vào tiêu chuẩn thiên tước (tức tuổi tác cao hay thấp).
Hội đồng Kỳ mục là cơ quan có toàn quyền định các công việc quan trọng của xã như phân bổ thuế khoá, sưu dịch, binh dịch, bầu cử Hội đồng tổng lý, phân cấp công điền, tổ chức hội hè đình đám, xây dựng và tu bổ đền chùa miếu mạo... Thành viên của Hội đồng Kỳ mục không do bầu cử, không cần sự công nhận của Nhà nước phong kiến, không có thời hạn quy định đứng chân trong Hội đồng, và số lượng ở từng xã cũng khác nhau do không có sự ấn định thống nhất về số thành viên Hội đồng.
Theo quy định của Triều đình Huế, Hội đồng Kỳ mục phải lựa chọn trong thành viên của mình một số lý dịch (hay còn gọi là chức dịch) đứng ra làm liên lạc trung gian giữa xã và chính quyền cấp trên. Lý dịch đại diện bộ máy chính quyền phong kiến ở xã, chịu trách nhiệm nộp các khoản sưu thuế, đi phu, đi lính cho Nhà nước. Mãi cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tổ chức lý dịch còn rất đơn giản, chỉ gồm 4 chức chính:
- Lý trưởng: là người đứng đầu bộ máy lý dịch cấp xã, chịu trách nhiệm chính trước Nhà nước về việc vận hành công việc hàng xã, nhằm thực hiện những đòi hỏi của Nhà nước đối với dân xã. Lý trưởng phải được chính quyền cấp tỉnh công nhận, cấp văn bằng và giao cho giữ “Triện” của làng. Tất cả các văn bản lưu hành trong xã, hoặc liên hệ với xã khác và các cấp hành chính cao hơn thì nhất thiết phải có chữ ký và dấu triện của Lý trưởng.
- Phó lý: là người phụ tá cho Lý trưởng và cùng với Lý trưởng chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Phó lý thường là người thay mặt Lý trưởng đi đôn đốc từng công việc cụ thể, như bắt phu, lấy lính, kiểm tra việc canh phòng làng xã. Do công việc nhiều, nên ở các xã lớn có nhiều thôn, thì một số xã có thể có nhiều Phó lý.
- Hương trưởng: là người đặc trách về mọi công ích, do đó cũng là người cùng Phó lý trực tiếp đôn đốc, lấy phu và điều khiển công việc tại nơi làm công ích.
- Xã tuần: là người đặc trách bảo đảm an ninh cho làng xã, tổ chức canh gác, tuần tra phòng ngừa nạn trộm cắp. Xã tuần có dưới tay một số tuần đinh hay tuần phiên, gồm trai tráng làng xã luân phiên canh gác tại các điểm canh và tuần đêm trên các xứ đồng thuộc xã. Xã tuần có khi được gọi là Quản xã, Xã khán hay Trương tuần, tuỳ theo tên gọi của từng xã .
- Tổ chức Lý dịch gồm 4 chức vụ nêu trên tương đối phổ biến nhất, chứ không phải lúc nào cũng như vậy.
Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục chỉ định đội ngũ giúp việc cho Lý trưởng, gọi là Ngũ hương. Đội ngũ Ngũ hương bao gồm 5 chức vụ : Hương bộ, Hương bản, Hương kiểm, Hương mục và Hương dịch. Mỗi chức đó thi hành một nhiệm vụ nhất định do Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục xã phân công và giám sát.
- Hương bộ: chủ yếu nắm giữ sổ hộ tịch của xã, nắm giữ sổ sách những người phải đóng thuế thân và thuế ruộng đất, sổ sách về công điền, công thổ của xã. Đối với những thôn, ấp, giáp hoặc xóm mà chính quyền cấp tỉnh cho phép lập sổ hộ tịch riêng chính quyền cấp tỉnh cũng cho phép những nơi đó đặt chức Phó Hương bộ để nắm giữ những việc đó. Phó Hương bộ có thể thay Hương bộ khi Hương bộ vắng mặt.
- Hương bản: phụ trách về tài chính và tài sản của xã, chịu trách nhiệm việc điều hành thu chi của ngân sách hàng xã và trông nom những tài sản vật chất của xã. Hương bản chỉ được phép quản lý một số tiền mặt không quá 30 đồng. Nếu quỹ tiền mặt lớn hơn 30 đồng thì số dư đó phải giao cho các nhà giàu có trong xã giữ hộ, những người này do Hộ đồng Kỳ mục xã chỉ định, tối thiểu sáu tháng một lần. Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục không thể giao phó cùng một lúc vào tay những cặp như: chú, anh- em ruột, cha-con, ông-cháu.
- Hương kiểm: chịu trách nhiệm về trật tự, trị an trong xã (dưới quyền Hương kiểm có Trương tuần và Tuần đinh).
- Hương mục: phụ trách việc trông nom, bảo vệ xây đắp và sửa chữa các loại đường nằm trong phạm vi xã như : đường bộ, đường sông, đường sắt... Do đó Hương mục là người trực tiếp phụ trách việc tuyển người, điều động nhân công đi làm xâu.
- Hương dịch: phụ trách việc thông báo cho toàn thể xã dân biết những quyết định của chính quyền cấp trên, những ngày mở hội làng... Ngoài ra Hương dịch còn chịu trách nhiệm về mặt vệ sinh công cộng của xã, và về tình trạng sức khỏe của súc vật trong xã.
Đối với Ngũ Hương, Hội đồng Kỳ mục xã lựa chọn trong số dân đinh của xã, tuổi từ 25 đến 50, chưa hề bị can án, và giới thiệu lên chính quyền cấp phủ hoặc huyện, Quan phủ hoặc huyện sẽ là người xét duyệt, bổ sung và sau đó phải báo cáo lên quan tỉnh, quan tỉnh sẽ báo cáo lên công sứ Pháp. Riêng chức Hương bản phải lựa chọn trong số những người giàu có.