Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:02 am

CHƯƠNG XII

TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH VÀ BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH THỜI PHÁP THUỘC (1885-1945)

I. TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885-1945)

1. Việc chia đặt đơn vị hành chính cấp Tỉnh ở Bình Định

Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn thuộc về Bình Định.

- Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú, Bình Định lại trở thành tỉnh độc lập.

- Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr (Plây-cu Đe ), tỉnh lỵ đặt tại làng Plây-can Đe của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Plây- cu Đe bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra.

- Ngày 25/4/1907, Toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định bãi bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sát nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên .

*Như vậy, tính đến năm 1910, Bình Định là một tỉnh lớn và rất rộng (gồm cả Kontum), dân số toàn tỉnh có khoảng 557.876 người, chia ra 550.000 người Kinh, 7.000 người Thượng, 750 người Goa, 120 người Pháp, 06 người Ấn. Cả tỉnh chia ra làm 7 phủ, huyện (phủ An Nhơn, phủ Hoài Nhơn, phủ Tuy Phước, huyện Phù Mỹ, huyện Hoài Ân, huyện Bình Khê và huyện Phù Cát. Cả tỉnh Bình Định còn có 3 xã Minh Hương gồm 607 suất đinh trực thuộc tỉnh .

- Năm 1913, thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú.
Cũng trong năm này vào ngày 9 tháng 2, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng, tỉnh lỵ đặt tại Kontum. Địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định ; Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc (tỉnh Đắc Lắc bị xóa bỏ và đổi tên thành Đại lý Đắc Lắc cũng từ Nghị định này). Tuy Kontum đã tách ra khỏi Bình Định, nhưng lại có thêm Phú Yên, Bình Định lúc đó gồm 5 phủ, 16 huyện, 65 tổng với 1.153 làng, dân số ước tính 931.200, trong đó có 180 người Âu, 930.000 người Việt, 1.100 người Hoa. Tỉnh lỵ là Quy Nhơn .

Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 28.3.1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sát nhập vào tỉnh Kontum.

Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên, lập lại thành tỉnh Bình Định thành tỉnh độc lập và kéo dài cho đến năm 1945. Lúc này Bình Định gồm 2 phủ và 5 huyện (quyền hành ngang nhau), chỉ có khác là phủ quan trọng hơn. Dân số 557.000 người, diện tích toàn tỉnh là 5.974 km2 6. Vào năm 1943, Bình Định có dân số 780.300 người, diện tích 6.100 km2 7, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Quy Nhơn.
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:05 am

CHƯƠNG XII

TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH VÀ BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH THỜI PHÁP THUỘC (1885-1945)

I. TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885-1945)
2. Việc chia đặt đơn vị hành chính cấp Phủ - Huyện - Thị xã và Thành phố

Năm 1885, Bình Định có 2 phủ là Hoài Nhơn và An Nhơn.

* Phủ Hoài Nhơn:

Phủ Hoài Nhơn nằm ở phía Bắc tỉnh thành cách 116 dặm, từ Đông đến Tây dài 53 dặm, từ Nam đến Bắc dài 153 dặm, phía Đông giáp biển, Tây giáp núi cao, Nam giáp giới huyện Tuy Viễn.

* Phủ An Nhơn:

Phủ An Nhơn Bắc giáp với huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi. Tên phủ này đặt ra từ đầu đời Lê, triều Nguyễn lúc đầu là phủ Quy Nhơn, sau đổi thành Quy Ninh, kế sau khôi phục lại tên cũ. Niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826) đặt chức Tri phủ kiêm Lý huyện Phù Ly, thống nhất hai huyện Tuy Viễn và Bồng Sơn. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia huyện Phù Ly làm 2 huyện Phù Cát và Phù Mỹ. Phủ lại kiêm Lý huyện Phù Cát, Thống hạt huyện Bồng Sơn và huyện Phù Mỹ, còn huyện Tuy Viễn biệt thiết làm phủ An Nhơn. Niên hiệu Tự Đức 10 (1865) cải kiêm Lý huyện Bồng Sơn, Thống hạt Phù Cát, Phù Mỹ. Như vậy, đến năm 1885, phủ Hoài Nhơn có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Cát và Phù Mỹ.

* Huyện Bồng Sơn gồm 4 tổng với 169 thôn:

1. Tổng Định Sơn có 14 thôn.
2. Tổng Thượng có 49 thôn.
3. Tổng Trung có 62 thôn.
4. Tổng Hạ có 44 thôn.

* Huyện Phù Mỹ gồm 3 tổng với 122 thôn:

1. Tổng Bình Hà có 15 thôn.
2. Tổng Trung Tĩnh có 38 thôn.
3. Tổng Trung Bình có 69 thôn.

* Huyện Phù Cát gồm 2 tổng với 131 thôn:

1. Tổng Trung Tĩnh có 55 thôn.
2. Tổng Trung Bình có 76 thôn.

* Phủ An Nhơn:

Phủ An Nhơn nằm về phía Tây cách tỉnh thành 14 dặm, từ phía Đông đến Tây dài 99 dặm, từ phía Nam đến phía Bắc 60 dặm, phía Đông giáp giới phủ Tuy Phước, phía Tây giáp giới cao nguyên, phía Nam đến Tây Nam giáp giới phủ Tuy Phước, phía Bắc đến biên giới huyện Phù Cát (nguyên là đất huyện Tuy Viễn phủ Hoài Nhơn). Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đặt tên phủ An Nhơn. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) bỏ phủ An Nhơn và An Nhơn thuộc về phủ Hoài Nhơn như cũ.

Năm Minh Mạng thứ 19 (1866) triều Nguyễn cho đặt lại phủ An Nhơn, kiêm Lý huyện Tuy Viễn, Thống hạt huyện Tuy Phước. Năm 1885, phủ An Nhơn có 2 huyện là Tuy Viễn và Tuy Phước với 256 thôn, trang ấp.

* Huyện Tuy Phước gồm 3 tổng với 147 thôn, trang:

1. Tổng Vân Dương có 52 thôn trang.
2. Tổng Tuy Hà có 53 thôn.
3. Tổng Thời Tú có 42 thôn.

* Huyện Tuy Viễn gồm có 2 tổng với 109 thôn:

1. Tổng Thời Đôn có 63 thôn.
2. Tổng Thời Hòa có 46 thôn.

Sau 1885, các phủ huyện ở tỉnh Bình Định liên tục có những thay đổi, nhiều huyện mới được thành lập.

Nguyên từ Tự Đức năm thứ 30 (1877), triều Nguyễn đặt Nha An Khê kinh lý ở miền Thượng du huyện Tuy Viễn. Đến năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) lại đặt thêm huyện Bình Khê thuộc phủ An Nhơn. “huyện Bình Khê nằm về phía Tây phủ An Nhơn, từ Đông đến Tây cách nhau 30 dặm, từ Nam đến Bắc cách nhau 70 dặm, phía Đông giáp huyện Tuy Viễn, phía Tây giáp với vùng núi, phía Nam giáp với huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, phía Bắc giáp với huyện Bồng Sơn (nguyên đất thượng du huyện Tuy Viễn). Niên hiệu Đồng Khánh thứ 3 (1888) cắt 10 thôn trong tổng Phú Phong, 8 thôn trong tổng Mỹ Thuận, cùng 28 thôn mới mộ khẩu chia làm 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Thuận Đức, An Khê và Tân Phong đặt làm huyện này, thuộc An Nhơn thống hạt, nay lãnh 4 tổng và 46 thôn..

Vào năm Canh Dần, Thành Thái thứ 2 (1890) Triều Nguyễn cho đặt Ân Châu ở thượng du huyện Bồng Sơn, thuộc Nghĩa Định Sơn phòng. Năm Kỷ Hợi (1899), vua Thành Thái ra chỉ dụ trích toàn tổng Vạn Đức và 9 thôn của tổng Trung Yên, 5 thôn của tổng Kim Sơn (Kim Sơn: trước gọi là Ô Liêm, Ô Kim), 14 thôn của tổng An Sơn, huyện Bồng Sơn để lập huyện Hoài Ân gồm 3 tổng: Hoài Đức, Quy Hóa, Vân Sơn với 61 làng, do phủ Hoài Nhơn thống hạt 10. Khoảng năm Đinh Sửu (1937), các tổng của huyện được phiên chế lại thành 4 tổng: Phú Hữu, Hoài Đức, Quy Hóa, Kim Sơn với 66 làng (trong đó có một làng sống trên sông nước, nhưng quyền lợi và nghĩa vụ như những làng khác, gọi là làng Bình Giang). Huyện lỵ Hoài Ân đầu tiên tại làng Phước Bình (Ân Hảo), sau chuyển xuống làng Mỹ Thành (Ân Tín), năm 1937 dời về làng An Thường (Ân Thạnh).

Ngày 20/10/1898, Cơ mật Viện triều đình Huế dâng tờ trình đề nghị thiết lập các trung tâm đô thị ở miền Trung, đến ngày 12.7.1899 vua Thành Thái ra dụ thành lập thị xã Quy Nhơn, gồm 2 làng Cẩm Thượng và Chánh Thành của Tổng Dương An, huyện Tuy Phước11. Ngày 30.8.1899, Chính phủ Pháp chuẩn y đạo dụ của vua Thành Thái.

Năm 1906, triều đình Huế đổi huyện Tuy Viễn thành phủ An Nhơn. Cũng trong thời gian này “huyện Tuy Phước để nguyên, đặt làm phủ Tuy Phước12. Tỉnh Bình Định lúc này lãnh 3 phủ 6 huyện:

* Phủ Hoài Nhơn (tên tục gọi là phủ Lại Giang) lĩnh 4 huyện 13 tổng cả thảy 420 thôn:

+ Huyện Bồng Sơn, có 5 tổng, cả thảy 166 thôn xã, do phủ Hoài Nhơn kiêm lý.
+ Huyện Hoài Ân, có 3 tổng, 61 thôn trang.
+ Huyện Phù Cát, có 4 tổng, cả thảy 127 thôn.
+ Huyện Phù Mỹ, có 4 tổng, 123 thôn.

* Phủ Tuy Phước: có 4 tổng, cả thảy 147 thôn xã.

* Phủ An Nhơn: có 2 huyện.
+ Huyện Tuy Viễn, có 4 tổng, cả thảy 112 thôn, do phủ An Nhơn kiêm lý.

+ Huyện Bình Khê, có 4 tổng, 46 thôn13.

Năm 1907, thực dân Pháp đặt thêm Đại lý hành chính Bồng Sơn thuộc phủ Hoài Nhơn và huyện Hoài Ân.

Như vậy, tính đến năm 1910, tỉnh Bình Định khi ấy rất rộng lớn (gồm cả Đại lý Kontum), dân số có khoảng 557.876 người, chia ra 550.000 người Kinh, 7000 người Thượng, 750 người Hoa, 120 người Pháp, 6 người Âu (14), cả tỉnh chia làm 3 phủ và 4 huyện đồng cấp là:

1. Phủ An Nhơn gồm 4 tổng:

- Tổng An Ngãi có 35 xã thôn với 32.800 người.
- Tổng Nhơn Ngãi có 24 xã thôn với 26.800 người.
- Tổng Mỹ Thuận có 22 xã thôn với 20.841 người.
- Tổng Phú Phong có 13 xã thôn với 16.210 người.

2. Phủ Hoài Nhơn gồm 4 tổng:

- Tổng Tài Lương có 36 xã thôn với 27.138 người.
- Tổng An Sơn có 24 xã thôn với 16.122 người.
- Tổng Trung An có 21 xã thôn với 18.720 người.
- Tổng Kim Sơn có 25 xã thôn với 24.028 người.

3. Phủ Tuy Phước gồm 4 tổng:

- Tổng Nhơn Ân có 35 xã thôn với 25.732 người.
- Tổng Quảng Nghiệp có 29 thôn với 40.130 người.
- Tổng Dương An có 43 thôn với 32.630 người.
- Tổng Dương Xuân có 39 thôn với 30.833 người.

4. Huyện Phù Mỹ gồm 4 tổng:

- Tổng Vân Định có 28 thôn với 27.889 người.
- Tổng Trung Thành có 36 thôn với 28.111 người.
- Tổng Trung Bình có 31 xã thôn với 31.117 người.
- Tổng Hòa Lạc có 30 xã thôn với 27.545 người.

5. Huyện Hoài Ân gồm 3 tổng:

- Tổng Qui Hòa có 21 thôn với 20.579 người.
- Tổng Hoài Đức có chợ Hội Long với 14.940 người.
- Tổng Vân Sơn có 19 thôn với 12.838 người.

6. Huyện Bình Khê gồm 4 tổng :

- Tổng Vĩnh Thạnh có 13 thôn với 12.132 người.
- Tổng Tân Phong có 11 thôn với 2.680 người.
- Tổng Thuận Truyền có 12 thôn với 5.617 người.
- Tổng An Khê có 11 xã thôn với 4.792 người.

7. Huyện Phù Cát gồm 4 tổng :

- Tổng Thạch Bàn có 30 thôn với 18.521 người.
- Tổng Trung Chánh có 25 thôn với 18.086 người.
- Tổng Xuân Yên có 37 xã thôn với 26.028 người.
- Tổng Chánh Lộc có 35 xã thôn với 25.929 người.

Cả tỉnh Bình Định có 3 xã Minh Hương gồm 607 suất đinh trực thuộc tỉnh.

Trong thế kỷ XIX, Quy Nhơn đã có phố xã, nhưng tên đơn vị hành chính vẫn là những xã (thôn) của các làng Chánh Thành và Cẩm Thượng. Vào nửa sau thế kỷ XIX, lúc thực dân Pháp thông cửa Quy Nhơn, một đô thị mới được hình thành bên đầm Thị Nại, do Cơ Mật viện của Triều đình Huế đề nghị thành lập thị xã Quy Nhơn (Le centre Urban de Quy Nhon) ở Trung Kỳ ngày 20.10.1898, và được vua Thành Thái ra đạo dụ chính thức ngày 12.7.1899. Ngày 30.8.1899, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer mới ra quyết định chuẩn y. Theo Nghị định ngày 14.3.1900, thị xã Quy Nhơn bao gồm đất của hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, có diện tích 7 km2. Ngày 30.4.1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier ra Nghị định nâng cấp thị xã Quy Nhơn lên Thành phố Quy Nhơn (Commune de Quy Nhon), một chế độ quản lý ra đời, đứng đầu là viên Đốc lý (Re’sident Maire) do Công sứ Bình Định kiêm nhiệm. Thành phố Quy Nhơn được chia làm 5 khu phố (Quartier): Khu 1 và 2 thuộc làng Chánh Thành, khu 3 và khu 4 thuộc làng Cẩm Thượng, và khu 5 ở phía Tây là đất của làng Hưng Thạnh (15). Bấy giờ, Quy Nhơn có 5 đường phố lớn: Gia Long (Trần Hưng Đạo), Khải Định (Lê Lợi), Mare’chal Foch (Nguyễn Huệ), Rue de lagune (Bạch Đằng) và Jules Ferry (Phan Bội Châu).

Đến năm 1945, Bình Định có dân số 780.300 người với diện tích 6.100 km2. Tỉnh lỵ đặt tại Thành phố Quy Nhơn. Tỉnh Bình Định lúc này lãnh 3 phủ, 4 huyện, 1 đại lý Bồng Sơn và Thành phố Quy Nhơn.

1. Phủ An Nhơn: Coi 4 tổng An Ngãi, Nhơn Ngãi, Mỹ Thuận và Phú Phong.

2. Phủ Hoài Nhơn: Coi 4 tổng Tài Lương, An Sơn, Trung An và Kim Sơn.

3. Phủ Tuy Phước: Coi 4 tổng Nhơn Ân, Quảng Nghiệp, Dương An, Dương Xuân.

4. Huyện Phù Mỹ: Coi 4 tổng Vân Định, Trung Thành, Trung Bình và Hòa Lạc.

5. Huyện Hoài Ân: Coi 3 tổng Quy Hòa, Hoài Đức và Vân Sơn.

6. Huyện Bình Khê: Coi 4 tổng Vĩnh Thạnh, Tân Phong, Thuận Truyền và An Khê.

7. Huyện Phù Cát: Coi 4 tổng Thạch Bàn, Trung Chánh, Xuân Yên và Chánh Lộc.
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:08 am

CHƯƠNG XII

TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH VÀ BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH THỜI PHÁP THUỘC (1885-1945)

I. TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885-1945)

3. Việc chia đặt đơn vị hành chính cấp tổng-xã

Năm 1885, cả tỉnh Bình Định có 14 tổng với 678 thôn, xã gồm:

* Huyện Bồng Sơn có 4 tổng với 169 thôn, xã:

1. Tổng Định Sơn có 14 thôn, xã.
2. Tổng Thượng có 49 thôn, xã.
3. Tổng Trung có 52 thôn, xã.
4. Tổng Hạ có 44 thôn, xã.

* Huyện Phù Mỹ gồm 3 tổng 122 thôn xã:

1. Tổng Bình Hà có 15 thôn, xã.
2. Tổng Trung Tĩnh có 38 thôn, xã.
3. Tổng Trung Bình có 69 thôn, xã.

* Huyện Phù Cát gồm 2 tổng với 131 thôn, xã:

1. Tổng Trung Tĩnh có 55 thôn, xã.
2. Tổng Trung Bình có 76 thôn, xã.

* Huyện Tuy Phước có 3 tổng với 146 thôn, xã

1. Tổng Vân Dương có 51 thôn, xã.
2. Tổng Duy Hà có 53 thôn, xã.
3. Tổng Thời Tú có 42 thôn, xã.

* Huyện Tuy Viễn có 2 tổng 109 thôn, xã:

1. Tổng Thời Đôn có 63 thôn, xã.
2. Tổng Thời Hòa có 46 thôn, xã.

Vào niên hiệu vua Đồng Khánh thứ 3 (1888) huyện Bình Khê được thành lập (thuộc phủ An Nhơn thống hạt) trên cơ sở trích 10 thôn trang của tổng Phú Phong và 8 thôn trang tổng Mỹ Thuận cùng với 28 thôn mới mộ khẩn chia làm 4 tổng mới: Tổng Vĩnh Thạnh, Tổng Thuận Đức, Tổng An Khê, Tổng Tân Phong, cả thảy chia làm 46 thôn, trang .

Năm Canh Dần (1890), triều đình Huế đặt châu Hoài Ân, thuộc Nghĩa Định, Sơn Phòng. Năm Kỷ Hợi (1899), vua Thành Thái ra dụ trích toàn tổng Vạn Đức, 9 thôn của tổng Trung Yên, 5 thôn của tổng Kim Sơn, 14 thôn của tổng An Sơn thuộc huyện Bồng Sơn để tập luyện Hoài Ân, gồm 3 tổng: Hoài Đức, Quy Hóa, Vân Sơn với 61 làng (huyện lỵ đầu tiên tại làng Phước Bình, nay thuộc xã Ân Hảo), sau chuyển xuống làng Mỹ Thanh (nay thuộc Ân Mỹ), khoảng năm 1939 dời sang làng An Thường (nay thuộc xã Ân Thạnh).

Ngày 14.3.1900 thực dân Pháp tách 2 làng Chánh Thành và Cẩm Thượng của tổng Dương An, thành lập thị xã Quy Nhơn. Sau đó 3 làng : Huỳnh Kim, Trung Ái và An Lộc của tổng Nhơn Ân, các làng Lộc Thuận,Tịnh Hòa, Tịnh Bình, Dương Xuân và Thái Xuân của tổng Dương Xuân nhập về phủ An Nhơn (Dương Xuân đổi thành tổng Triều Quang) .

Đến năm 1906, niên hiệu Thành Thái 18, toàn tỉnh Bình Định lúc này có 3 phủ, 6 huyện với 26 tổng và 702 thôn, xã.

Cũng trong năm 1906, huyện Bình Khê biệt lập hẳn, làm việc trực tiếp lên tỉnh, không thuộc phủ An Nhơn nữa. Lúc này vì núi sông, đường sá, đèo thác cách trở, những thôn phía Tây xã Bình Quang (bấy giờ) rút bớt ra để lập lên tỉnh Gia Lai và thành lập huyện Tân Ân (tức An Khê bây giờ). Huyện Bình Khê, thời ấy chỉ còn 3 tổng: Vĩnh Thạnh, Phú Phong và Mỹ Thuận. Một năm sau, có lệnh rút bớt một số thôn của tổng Mỹ Đức của phủ An Nhơn, nhập với các thôn của tổng Mỹ Thuận để chia làm 2 tổng Thuận Truyền và Trường Định. Vậy Bình Khê gồm có 4 tổng như sau19 :

1. Tổng Vĩnh Thạnh (có 10 làng): Thạch Quang, Vĩnh Khương, Định Thành, Định Quang, Vĩnh Thạnh, Tiên Thuận, Thượng Quang, Tả Giang, Hữu Giang, Trịnh Tường.

2. Tổng Phú Phong (có 12 làng): Phú Phong, Xuân Hòa, An Xuân, Lai Nghi, Thủ Thiện, Phú Lạc, Phú Mỹ, Thuận Nghĩa, Vĩnh Lộc, Dõng Hòa, Kiên Thành.

3. Tổng Thuận Truyền (có 13 làng): Thuận Truyền, Thuận Hòa,

Phú Ân, Phú Hữu, Hưng Long, Mỹ Thạch, Thuận An, Thuận Ninh, Hội An, Thuận Nhất, Thuận Hạnh, Hòa Bình, Mỹ Thành.

4. Tổng Trường Định (có 15 làng): Trường Định, Kiên Long, Kiên Ngãi, An Dõng, Vân Tường, An Chánh, Mỹ Thuận, Mỹ An, Háo Nghĩa, Trà Sơn, An Vinh, Đại chí, Bình Đức, Nhơn Thuận, Mỹ Đức.

Năm 1920, các làng Vĩnh Lại, Tiên Hội, Châu Thành, Phú Thành, Lý Nhơn, Tây Thuận, An Tây, Vĩnh Lợi, Khánh Đức, Lộc Phú của tổng Xuân An được cắt chuyển cho tổng An Ngãi (phủ An Nhơn), các lãng Vĩnh Định, Trung Lý chuyển cho tổng Háo Đức (phủ An Nhơn)(20).

Năm 1936, chính quyền thực dân Pháp lấy một số làng của tổng Trung Chánh và Thạch Bàn (phủ An Nhơn) lập tổng Trung Nghĩa, một số làng của 2 tổng Xuân An và Chánh Lộc (phủ An Nhơn) lập tổng Xuân Lộc.

Năm 1939, thực dân Pháp lại cho lập thêm 2 tổng mới bằng cách chia Háo Đức thành Háo Đức Thượng và Háo Đức Hạ, Nhơn Nghĩa thành Nhơn Nghĩa Thượng và Nhơn Nghĩa Hạ (thuộc phủ An Nhơn).

Năm 1940, tổng Kim Sơn được tách về cho huyện Hoài Ân và phủ Hoài Nhơn lập thêm 2 tổng mới là Vân Sơn và Phú Nhuận.

Như vậy tính đến năm 1943, toàn tỉnh Bình Định có số dân 780.300 người với diện tích 61.000 km2. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Quy Nhơn, cả tỉnh có 3 phủ, 4 huyện, 1 thành phố với 27 tổng, 695 thôn xã và 5 phường ở Quy Nhơn.
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:10 am

II. BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885 - 1945)

1. Bộ máy quản lý Nam triều

Trước hết cần khẳng định một điều là từ khi thực dân Pháp đặt Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa, thì quyền lực của Nam triều đối với Nam kỳ coi như đã hoàn toàn chấm dứt. Còn đối với Bắc kỳ (3.6.1886) thì bãi bỏ chức Kinh lược sứ Bắc kỳ, chuyển giao toàn bộ chức năng của Kinh lược sứ vào tay Thống sứ Bắc kỳ ngày 26.7.1897), thực dân Pháp cũng đã loại trừ quyền lực của Nam triều ra khỏi địa bàn Bắc kỳ. Bởi vậy, tuy “Chính phủ Nam triều” vẫn được duy trì bộ máy chính quyền trên cả 2 miền Trung - Bắc Việt Nam, nhưng thực chất chỉ hạn chế trong phạm vi Trung kỳ mà thôi, và hệ thống chính quyền đó được trải dài qua 3 cấp trung ương, tỉnh và xã. Nếu như triều đình nhà Nguyễn bị thực dân Pháp khống chế một cách nhanh chóng và lộ liễu, thì sự lũng đoạn của người Pháp đối với guồng máy chính quyền phong kiến địa phương tỏ ra muộn hơn và tinh tế hơn.

Bình Định thời kỳ 1885 - 1945 là một tỉnh lớn có địa bàn chiến lược quan trọng ở Trung kỳ nên cũng không nằm ngoài sự chi phối và quản lý của bộ máy chính quyền Nam Triều.

* Cấp tỉnh: Đứng đầu tỉnh Bình Định là một viên Tổng đốc (hàm Chánh nhị phẩm) chuyên lo việc dân sự lẫn quân sự, khảo hạch quan lại... và phụ trách chung giúp việc có 1 Bố chánh đặc trách về thuế khoá, đinh điền, lính tráng và ban bố các mệnh lệnh của triều đình về các địa phương trong tỉnh (hàm Chánh tam phẩm). Một Án sát thì coi việc hình luật và kiêm thêm công tác bưu trạm (hàm Tổng tam phẩm). Lúc đầu cơ quan làm việc của Tổng đốc đóng ở thành Bình Định (nay là thị trấn An Nhơn), đến năm 1935 mới dời về đóng ở Công Quán (nay là khu vực đồn công an phường Trần Hưng Đạo). Tại Công Quán là nơi làm việc của các Ty Phiên và Ty Niết, còn vị Tổng đốc làm việc ở toàn Đốc lý (Ngã ba đường Trần Bình Trọng và Marechal Foch). Tổng đốc ở tỉnh Bình Định vào giai đoạn lịch sử cuối cùng trước khi nổ ra cuộc Cách mạng vào tháng 8/1945 là Phạm Phú Triết. Chính Phạm Phú Triết đã trao lại ấn (khuôn dấu) cho lực lượng nhân dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại TP. Quy Nhơn chiều ngày 23.8.1945(24). Ngoài ra còn có các cơ quan khác tỉnh Bình Định như: Ty Lễ Sinh, Ty Chiêm Hậu, và Ty Lương Y vẫn duy trì và tiếp tục làm việc. Năm 1868 vua Tự Đức ấn định số lượng nhân viên làm việc ở các cơ quan tỉnh Bình Định gồm:

+ Ty Chiêm Hậu: 1 Chiêm Hậu, 2 vị nhập lưu.
+ Ty Lương Y: 1 y sinh, 6 y thuộc.
+ Ty Lễ Sinh: 1 tự thừa ở lễ sinh hiệu, 10 lễ sinh (Chiêm hậu vị nhập lưu, y thuộc, lễ sinh 3 hạng ấy thôi không cấp lương.

* Cấp phủ huyện: Dưới quan đầu tỉnh là hệ thống quan lại ở các phủ , huyện, đạo, châu. Đứng đầu mỗi phủ là quan Tri phủ, huyện có quan Tri huyện, đạo thì có quan Chánh Quản đạo, hoặc Quản đạo, châu có quan Tri châu. Các chức Chánh Quản đạo, Quản đạo, Tri châu, phó Tri châu nếu chưa có người dân tộc thiểu số đảm nhiệm thì có thể do Tri phủ hoặc Tri huyện người kinh nắm giữ. Đối với những đạo và châu có địa bàn rộng, thường có thêm chức Bang tá để giúp việc cho Chánh Quản đạo hoặc Tri châu cai trị các vùng xa đạo lý, hoặc Châu lý. Ngoài ra có thể có thêm có các chức Phủ úy, Huyện úy, Châu úy phụ trách việc trị an tại những vùng quá rộng khó kiểm soát.

Năm 1885 Bình Định có 2 phủ là Hoài Nhơn và An Nhơn.

+ Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Cát và Phù Mỹ.
+ Phủ An Nhơn có 2 huyện Tuy Viễn và Tuy Phước.

Đứng đầu phủ là Tri phủ (hàm ngũ phẩm), phủ lắm việc có thêm một Đồng Tri phủ (Chánh lục phẩm).

Bên cạnh việc phân chia trên, triều đình Huế còn căn cứ vào số huyện thuộc hạt, cụ thể là địa bàn quản lý nhiều hay ít huyện để phân thành các loại Phủ trung khuyết và giản khuyết.

Thông thường có một Tri phủ kiêm quản một huyện (không đặt huyện thừa), còn lại mỗi huyện có một Tri huyện (hàm ngũ phẩm) đứng đầu.

Phủ An Nhơn và Hoài Nhơn ở tỉnh Bình Định thuộc diện này, Tri phủ Hoài Nhơn kiêm Lý huyện Phù Cát, Thống hạt các huyện Phù Mỹ và Bồng Sơn. Tri phủ An Nhơn kiêm Lý huyện Tuy Viễn, Thống hạt huyện Tuy Phước.

Đối với huyện Bình Khê, năm 1888 triều đình Huế cắt 10 thôn Tổng Phú Phong, 8 thông Tổng Mỹ Thuận cùng 28 thôn mới mộ khẩu chia làm 4 tổng: Vĩnh Thạnh, Thuận Tuyền, An Khê và Tân Phong đặt làm huyện này, thuộc phủ An Nhơn thống hạt. Đứng đầu huyện có một viên Tri huyện lãnh đạo mọi mặt về dân chánh. Các phụ tá của viên Tri huyện gọi là “lại mục”, bên dưới có một số nhân viên gọi là “thừa biện” hoặc “thừa phái”.

Về mặt bảo an, bảo vệ cơ quan huyện và sai phái trong việc công thì có một Lệ Mục (gọi là Đội Lệ), dưới có một số lính. Huyện chia làm nhiều tổng, đầu mỗi tổng có một vị Chánh tổng lo việc dân chính .

* Cấp tổng xã: Đơn vị hành chính dưới phủ huyện còn có cấp tổng. Tổng là đơn vị hành chính xuất hiện từ thời Lê và được triều Nguyễn duy trì. Tổng như là một cấp trung gian giữa phủ, huyện và các cơ sở xã, thôn. Đứng đầu mỗi tổng có một Chánh tổng, sau gọi là Cai tổng và có thêm Phó tổng. Cai tổng không do dân bầu ra như Xã trưởng và cũng không được nhà vua bổ nhiệm như Tri phủ, Tri huyện. Tiêu chuẩn để cân nhắc đó là tài năng và phẩm chất. Quan Tri huyện và Tri phủ đề nghị, và các quan Lưu thủ (dinh), Trấn thủ (trấn) bổ nhiệm. Chánh tổng là cánh tay vươn dài của phủ huyện đến xã thôn. Nhiệm vụ Chánh tổng (Cai tổng) là thúc lương tiền, tuần phòng trộm cắp ở các xã trong địa bàn của tổng.

Cấp xã là đơn vị hành chính cơ sở được các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm. Triều Nguyễn rất chú ý tổ chức chính quyền đơn vị hành chính cấp xã. Đại bộ phận dân cư, nơi cung cấp chủ yếu nhân lực và vật lực cho Nhà nước là xã thôn. Do đó việc thịnh suy của một triều đại thường gắn liền với việc tổ chức, quản lý xã thôn.

Xã là cấp hành chính nhỏ nhất, căn bản nhất trong guồng máy cai trị của chính quyền triều Nguyễn. Nhiều xã hợp thành tổng, nhiều tổng hợp thành phủ hay huyện.

Bộ máy hành chính cấp cơ sở lúc đầu chủ yếu gồm Xã trưởng. Xã trưởng là người đứng đầu làng xã về mặt hành chính. Giúp việc cho Xã trưởng là Thôn trưởng, mỗi xã có thể có từ 1 đến nhiều Thôn trưởng tuỳ thuộc vào quy mô lớn nhỏ của mỗi xã. Chế độ Xã trưởng, Thôn trưởng tồn tại khoảng 3 thập niên đầu thế kỷ XIX. Năm 1828 Minh Mạng có một số thay đổi trong bộ máy hành chính làng xã. Chức Xã trưởng được thay thế bằng chức Lý trưởng, bãi bỏ chức Thôn trưởng, đặc chức Phó Lý trưởng. Mỗi xã chỉ đặt 1 Lý trưởng và chức Phó Lý trưởng nhiều nhất cũng chỉ được 2 người.

Lý trưởng được làng xã bầu lên theo nguyên tắc dân chủ. Tiêu chuẩn để ứng cử vào chức vụ này phải là người “vật lực cần cán”, nghĩa là phải có số tài sản nhất định và phải có đức tính siêng năng cần mẫn. Từ năm 1883 cho đến hết thế kỷ XIX, thậm chí vào khoảng thời gian đầu thế kỷ XX, bộ máy chính quyền cấp xã ở tỉnh Bình Định về cơ bản vẫn giữ nguyên như trước (1828). Hội đồng Kỳ mục là bộ máy quản lý xã thôn truyền thống, bao gồm những người đang sinh sống tại xã hoặc có tên trong sổ đinh của xã, gọi chung là quan viên hàng xã. Họ gồm các chức sắc, quan lại về hưu, những người có đỗ đạt, các tân cựu Chánh tổng hoặc Phó tổng, các cựu Lý trưởng hoặc Phó lý... Đứng đầu Hội đồng Kỳ mục là một vị Tiên chỉ, và một hoặc 2 Thứ chỉ. Tiên chỉ và Thứ chỉ được bầu ra tuỳ theo tập quán của từng xã, cụ thể: Xã trọng hoạn thì cử người làm quan đã về hưu hoặc tại chức có cấp bậc cao nhất, xã trọng phẩm hàm, thì cử người có phẩm hàm cao nhất, xã trọng khoa cử thì cử người đỗ bằng cấp cao nhất... Trong trường hợp có nhiều người giữ chức vụ quan trường ngang nhau, có phẩm hàm ngang nhau hoặc có bằng cấp khoa trường ngang nhau, thì dựa vào tiêu chuẩn thiên tước (tức tuổi tác cao hay thấp).

Hội đồng Kỳ mục là cơ quan có toàn quyền định các công việc quan trọng của xã như phân bổ thuế khoá, sưu dịch, binh dịch, bầu cử Hội đồng tổng lý, phân cấp công điền, tổ chức hội hè đình đám, xây dựng và tu bổ đền chùa miếu mạo... Thành viên của Hội đồng Kỳ mục không do bầu cử, không cần sự công nhận của Nhà nước phong kiến, không có thời hạn quy định đứng chân trong Hội đồng, và số lượng ở từng xã cũng khác nhau do không có sự ấn định thống nhất về số thành viên Hội đồng.

Theo quy định của Triều đình Huế, Hội đồng Kỳ mục phải lựa chọn trong thành viên của mình một số lý dịch (hay còn gọi là chức dịch) đứng ra làm liên lạc trung gian giữa xã và chính quyền cấp trên. Lý dịch đại diện bộ máy chính quyền phong kiến ở xã, chịu trách nhiệm nộp các khoản sưu thuế, đi phu, đi lính cho Nhà nước. Mãi cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tổ chức lý dịch còn rất đơn giản, chỉ gồm 4 chức chính:

- Lý trưởng: là người đứng đầu bộ máy lý dịch cấp xã, chịu trách nhiệm chính trước Nhà nước về việc vận hành công việc hàng xã, nhằm thực hiện những đòi hỏi của Nhà nước đối với dân xã. Lý trưởng phải được chính quyền cấp tỉnh công nhận, cấp văn bằng và giao cho giữ “Triện” của làng. Tất cả các văn bản lưu hành trong xã, hoặc liên hệ với xã khác và các cấp hành chính cao hơn thì nhất thiết phải có chữ ký và dấu triện của Lý trưởng.

- Phó lý: là người phụ tá cho Lý trưởng và cùng với Lý trưởng chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Phó lý thường là người thay mặt Lý trưởng đi đôn đốc từng công việc cụ thể, như bắt phu, lấy lính, kiểm tra việc canh phòng làng xã. Do công việc nhiều, nên ở các xã lớn có nhiều thôn, thì một số xã có thể có nhiều Phó lý.

- Hương trưởng: là người đặc trách về mọi công ích, do đó cũng là người cùng Phó lý trực tiếp đôn đốc, lấy phu và điều khiển công việc tại nơi làm công ích.

- Xã tuần: là người đặc trách bảo đảm an ninh cho làng xã, tổ chức canh gác, tuần tra phòng ngừa nạn trộm cắp. Xã tuần có dưới tay một số tuần đinh hay tuần phiên, gồm trai tráng làng xã luân phiên canh gác tại các điểm canh và tuần đêm trên các xứ đồng thuộc xã. Xã tuần có khi được gọi là Quản xã, Xã khán hay Trương tuần, tuỳ theo tên gọi của từng xã .

- Tổ chức Lý dịch gồm 4 chức vụ nêu trên tương đối phổ biến nhất, chứ không phải lúc nào cũng như vậy.

Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục chỉ định đội ngũ giúp việc cho Lý trưởng, gọi là Ngũ hương. Đội ngũ Ngũ hương bao gồm 5 chức vụ : Hương bộ, Hương bản, Hương kiểm, Hương mục và Hương dịch. Mỗi chức đó thi hành một nhiệm vụ nhất định do Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục xã phân công và giám sát.

- Hương bộ: chủ yếu nắm giữ sổ hộ tịch của xã, nắm giữ sổ sách những người phải đóng thuế thân và thuế ruộng đất, sổ sách về công điền, công thổ của xã. Đối với những thôn, ấp, giáp hoặc xóm mà chính quyền cấp tỉnh cho phép lập sổ hộ tịch riêng chính quyền cấp tỉnh cũng cho phép những nơi đó đặt chức Phó Hương bộ để nắm giữ những việc đó. Phó Hương bộ có thể thay Hương bộ khi Hương bộ vắng mặt.

- Hương bản: phụ trách về tài chính và tài sản của xã, chịu trách nhiệm việc điều hành thu chi của ngân sách hàng xã và trông nom những tài sản vật chất của xã. Hương bản chỉ được phép quản lý một số tiền mặt không quá 30 đồng. Nếu quỹ tiền mặt lớn hơn 30 đồng thì số dư đó phải giao cho các nhà giàu có trong xã giữ hộ, những người này do Hộ đồng Kỳ mục xã chỉ định, tối thiểu sáu tháng một lần. Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục không thể giao phó cùng một lúc vào tay những cặp như: chú, anh- em ruột, cha-con, ông-cháu.

- Hương kiểm: chịu trách nhiệm về trật tự, trị an trong xã (dưới quyền Hương kiểm có Trương tuần và Tuần đinh).

- Hương mục: phụ trách việc trông nom, bảo vệ xây đắp và sửa chữa các loại đường nằm trong phạm vi xã như : đường bộ, đường sông, đường sắt... Do đó Hương mục là người trực tiếp phụ trách việc tuyển người, điều động nhân công đi làm xâu.

- Hương dịch: phụ trách việc thông báo cho toàn thể xã dân biết những quyết định của chính quyền cấp trên, những ngày mở hội làng... Ngoài ra Hương dịch còn chịu trách nhiệm về mặt vệ sinh công cộng của xã, và về tình trạng sức khỏe của súc vật trong xã.

Đối với Ngũ Hương, Hội đồng Kỳ mục xã lựa chọn trong số dân đinh của xã, tuổi từ 25 đến 50, chưa hề bị can án, và giới thiệu lên chính quyền cấp phủ hoặc huyện, Quan phủ hoặc huyện sẽ là người xét duyệt, bổ sung và sau đó phải báo cáo lên quan tỉnh, quan tỉnh sẽ báo cáo lên công sứ Pháp. Riêng chức Hương bản phải lựa chọn trong số những người giàu có.
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:13 am

II. BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TỈNH BÌNH ĐỊNH (1885 - 1945)
2. Bộ máy quản lý của thực dân Pháp ở tỉnh Bình Định

Bằng quy ước ngày 30/7/1885, chính quyền thực dân Pháp đã chính thức cho đặt một chức Công sứ người Pháp (Résident) đứng đầu mỗi tỉnh ở miền Trung và miền Bắc. Lúc này đứng đầu tỉnh Bình Định là Công sứ Pháp nắm giữ các vấn đề về thương chính và công chính trong tỉnh, thể theo tinh thần Hiệp ước ngày 25.8.1883. Năm 1886 chính quyền thực dân bên chính quốc lại cho phép Công sứ được thi hành cả chức năng của lãnh đạo sự. Cùng với việc thiết lập, củng cố, mở rộng quyền lực của Khâm sứ Trung Kỳ thì quyền lực Công sứ cũng được củng cố và mở rộng. Công sứ đã trở thành người thay mặt cho Khâm sứ nắm và chỉ đạo mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở xuống .

Dưới Công sứ là viên Phó sứ ( Résident Adjoint) giúp việc, đồng thời Pháp đặt thêm một vài trung tâm hành chính (Centre administratif) hoặc sở Tham biện (Délégation) ở những nơi xa tỉnh lỵ; những trung tâm hành chính, hoặc sở Tham biện này do Phó sứ hoặc sỹ quan Pháp phụ trách, lực lượng lính khố xanh thay mặt cho Công sứ nắm những nơi đó.

Đứng đầu Đại lý hành chính Bồng Sơn là 1 Phó sứ hoặc 1 sỹ quan Pháp. Đứng đầu thị xã Quy Nhơn là Công sứ kiêm quản. Khi nâng lên thành phố Quy Nhơn thì chức Đốc lý thành phố do Công sứ Pháp kiêm nhiệm.

Để thi hành được trách nhiệm và quyền lực của mình, Công sứ cũng có một sổ tổ chức phụ tá chính như sau :

* Toà Công sứ : Vị trí của Tòa Công sứ, đóng ở gần khách sạn Du lịch ngày nay, trên đường Maréchal Foch (nay là đường Nguyễn Huệ). Đây là tổ chức chân rết ở cấp tỉnh của Tòa Khâm, nó được thiết lập từ sắc lệnh ngày 3.2.1886 của Tổng thống Pháp, gồm có: một văn phòng phụ trách chung, khối phòng, ban phụ trách những công việc có liên quan đến người Âu, một khối phòng ban phụ trách những công việc có liên quan đến người Việt ở trong tỉnh, một khối phòng ban phụ trách những công việc tài chính và ngân sách. Tòa công sứ vừa là cơ quan hành pháp và tư pháp của chính quyền thực dân ở cấp tỉnh.

* Hội đồng hàng Tỉnh : Được thiết lập theo đạo dụ ký ngày 29.4.1913 của vua Duy Tân và đã được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định ngày 4.6.1913. Nội dung của Đạo dụ này gồm một số điểm sau đây:

- Về tên gọi : Tại mỗi tỉnh Trung kỳ đều phải thiết lập một tổ chức đại diện cho người Việt ở cấp tỉnh; tổ chức đó mang tên là Hội đồng Kỳ mục bản xứ hàng Tỉnh (Conseil Provincialdes Notables Indigénes), thường gọi tắt là Hội đồng hàng Tỉnh.

- Về số lượng và thành phần của ủy viên Hội đồng : Số lượng ủy viên của mỗi Hội đồng sẽ do Khâm sứ Pháp ấn định cho từng tỉnh. Ủy viên Hội đồng hàng Tỉnh ở Trung kỳ phải được tuyển lựa theo 3 nguồn sau :

Một là hàng ngũ Chánh tổng của các phủ, huyện người Kinh, phủ huyện nào có từ 6 tổng trở xuống, sẽ được bầu một đại biểu vào Hội đồng hàng Tỉnh; phủ, huyện nào trên 6 tổng, sẽ được bầu 2 đại biểu. Cử tri của thành phần này gồm : Chánh tổng, Phó tổng hiện dịch; Cựu Chánh Tổng, Phó tổng không bị kỷ luật phải bỏ phiếu kín.

Hai là hàng ngũ Chánh tổng của các tổng người dân tộc. Đại biểu này do Công sứ hiệp đồng cùng quan tỉnh trực tiếp lựa chọn. Song số lượng đại biểu thuộc thành phần này không được vượt quá ¼ tổng số đại biểu người Kinh trong mỗi Hội đồng.

Ba là hàng ngũ các thân hào, nhân sỹ người Kinh có tiếng tăm “vì khả năng của họ, và vì lòng cúc cung tận tụy của họ đối với lợi ích và thể chế của đất nước”. Số đại biểu này do Công sứ hiệp đồng cùng giới cầm quyền hàng tỉnh người Việt lựa chọn. Những viên chức hiện dịch người Việt không nằm trong diện được lựa chọn. Người nào ở đâu sẽ đại diện cho nơi đó một khi đã lựa chọn. Số lượng đại biểu này không được quá ¼ tổng số đại biểu người Kinh đã được bầu cử trong Hội đồng.

Danh sách ủy viên Hội đồng hàng Tỉnh dù là thông qua bầu cử hay thông qua sự lựa chọn của Công sứ, cuối cùng đều phải được Khâm sứ duyệt. Nhiệm kỳ của ủy viên Hội đồng là 3 năm, hết nhiệm kỳ có thể được tái cử.

- Về chức năng nhiệm vụ: Hội đồng hàng Tỉnh có trách nhiệm góp ý kiến với chính quyền về các vấn đề như: chi phí về các công việc có tính chất kinh tế và xã hội; phân chia khu vực địa lý hành chính của cấp phủ, huyện, châu, tổng, xã thuộc phạm vi tỉnh, bảo quản xây đường sá, đê điều, sông đào ... trong tỉnh. Hội đồng hàng Tỉnh có thể được chính quyền tham khảo ý kiến về tất cả các vấn đề có liên quan đến tỉnh. Hội đồng hàng Tỉnh cũng có thể được lập các bản “thỉnh nguyện” để chuyển sang chính quyền xem xét, nhưng chỉ được giới hạn trong các vấn đề kinh tế, xã hội, chứ tuyệt đối không được đề cập đến các vấn đề có tính chất chính trị.

- Về hoạt động : hàng năm vào đầu tháng 5 Hội đồng hàng Tỉnh phải họp khoá thường kỳ, tại Toà Công sứ (tức 3 tháng trước khi Viện Dân biểu Trung kỳ họp). Ngày, giờ cụ thể sẽ do Công sứ ấn định. Ngoài ra khi cần thiết, Công sứ có thể đề nghị Khâm sứ cho phép họp kỳ bất thường. Tất cả các vấn đề do chính quyền yêu cầu góp ý kiến, Hội đồng hàng Tỉnh đưa ra thảo luận trước tiên. Mỗi cuộc họp của Hội đồng đều do Công sứ chủ tọa với tư cách là Chủ tịch Hội đồng hàng Tỉnh, bên cạnh có một viên quan tỉnh làm phụ tá, với tư cách là phó Chủ tịch Hội đồng. Các cuộc họp đều phải có biên bản ghi bằng chữ Pháp và chữ Nho.

* Toà Đốc lý thành phố và Hội đồng thành phố:

Quy Nhơn là một thành phố cấp III, thì Toà Công sứ làm luôn chức năng của Toà Đốc lý. Có nghĩa nó là cơ quan tổng hợp, tức vừa là cơ quan hành pháp vừa là cơ quan tư pháp của chính quyền thực dân ở đây.

Đứng đầu thành phố Quy Nhơn là viên Đốc lý người Pháp, do Khâm sứ lựa chọn. Viên Đốc lý là một quan chức dân sự, nắm chủ quyền ngân sách thành phố và Chủ tịch Hội đồng thành phố. Đốc lý có quyền hạn thông báo và cho thực hiện trên địa hạt thành phố Quy Nhơn những luật lệ hoặc quy định, cho áp dụng các biện pháp an ninh thông thường và đảm nhiệm tất cả các công việc được giao phó bằng các văn bản pháp lý hoặc quy tắc đã ban hành. Đốc lý phải đảm bảo việc thi hành những quyết nghị của Hội đồng thành phố, đại diện về tư pháp ở thành phố dưới hình thức đề nghị hoặc ngăn cấm, soạn thảo đề xuất và thực hiện việc lập ngân sách thành phố, gây dựng, tu chỉnh và bảo quản vấn đề giao thông lục lộ của thành phố, dự toán những hợp đồng cung ứng và các công việc lợi ích cho thành phố dưới dạng quy định bằng pháp luật hoặc quy tắc. Đối với chức vụ của các viên chức trong thành phố, Đốc lý có quyền bổ dụng những chức vụ không có quy định cách thức bổ nhiệm đặc biệt và có quyền đình chỉ hoặc cách chức chính thức các chức vụ đó.

Vấn đề an ninh trật tự của thành phố, Đốc lý chịu trách nhiệm bàn bạc thảo luận với quan chức trong tỉnh Bình Định về tất cả các biện pháp cần thiết để đảm bảo trật tự, vệ sinh và sự bình yên cho thành phố. Việc phê chuẩn các quy định được đưa ra bởi Đốc lý thường căn cứ vào những vấn đề đã vạch sẵn trong một số điều khoản của Bộ hình luật của nước Pháp, mỗi khi cần phải thực hiện ở địa hạt hành chính thuộc Toà án Pháp và phải căn cứ vào những điều khoản của Bộ luật Nam triều khi cần thực hiện ở địa hạt hành chính thuộc Toà án Nam triều. Trong trường hợp liên quan đến Toà án thì phạm nhân bị truy tố bởi cảnh sát Trưởng trước Toà án của quan quản hạt. Những quy định được đưa ra bởi Đốc lý phải lập tức báo cáo cho Khâm sứ Trung kỳ ở Huế. Khâm sứ có thể huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thực hiện sau khi hội ý với Cơ Mật viện của Nam triều. Bản sao những quy định này có thể do Tổng đốc Bình Định đệ trình lên Cơ Mật viện với tư cách thẩm cứu. Các quy định an ninh thường trực trong thành phố chỉ được thực hiện sau một tháng kể từ ngày gởi bản sao lục lên thẩm quyền cấp cao. Những quy định của Đốc lý thành phố chỉ trở thành bắt buộc sau khi có văn bản đầy đủ và được phổ biến bằng các yết thị ghi bằng tiếng Pháp và tiếng bản địa khi hàm chức những quy định tổng quát, còn trong các trường hợp khác thì phải có những cáo thị riêng biệt .

Giúp việc cho Đốc lý là một Hội đồng thành phố gồm 4 thành viên, do Đốc lý làm Chủ tịch Hội đồng. Viên Tổng đốc Nam triều ở tỉnh Bình Định được quyền tham dự các buổi họp của Hội đồng thành phố Quy Nhơn với tư cách là Phó Chủ tịch Hội đồng thành phố. Tổng đốc Bình Định có quyền bỏ phiếu biểu quyết về tất cả các vấn đề của Hội đồng. Trong trường hợp việc bỏ phiếu của Hội đồng bị phân tán, thì lá phiếu của Đốc lý trở thành quyết định cuối cùng.

Thành viên chính thức của Hội đồng thành phố Quy Nhơn gồm 2 người Pháp và 2 người Việt, họ được Khâm sứ Trung kỳ bổ nhiệm trong thời hạn 4 năm. Dựa theo sự đề nghị của Đốc lý thành phố và Tổng đốc Bình Định. Những quan chức có chân trong bất kỳ công sở Nhà nước nào ở Đông Dương đều không được tham gia vào Hội đồng. Các thành viên người Pháp và người Việt trong Hội đồng được lựa chọn từ những chủ điền thổ, từ những thương gia có thẻ môn bài hoặc những nhân sĩ có tiếng tăm trong thành phố Quy Nhơn, với điều kiện phải từ 25 tuổi trở lên, không có những hoạt động riêng tư như kinh doanh một công việc hoặc một dịch vụ công cộng, không có hợp đồng hành chính ràng buộc với thành phố và có quyền dân sự cũng như chính trị. Thành viên Hội đồng thành phố không được trả tiền lương và với số lượng bị khiếm khuyết bất ngờ do việc từ chức, thuyên chuyển chỗ ở hoặc bị chết thì được bổ nhiệm thành viên bổ sung trong thời hạn còn lại cho đến khi đúng hạn bổ nhiệm Hội đồng mới.

Về hoạt động và quyền hạn của Hội đồng thành phố Quy Nhơn, Hội đồng nhóm họp các phiên thường kỳ vào hàng quý theo đúng ngành quy định của Khâm sứ Trung kỳ và do Đốc lý thực hiện việc triệu tập cuộc họp. Hội đồng thành phố có thể nhóm họp các phiên bất thường, trong trường hợp người đứng đầu bộ máy hành chính địa phương triệu tập nhằm quy định của Khâm sứ Trung kỳ trên cơ sở Đốc lý thành phố đề nghị. Hội đồng cũng họp phiên bất thường khi có yêu cầu của đa số thành viên đương chức của Hội đồng đề nghị, nhưng ở trường hợp này Đốc lý phải có trách nhiệm trong vòng 24 tiếng đồng hồ để yêu cầu sự đồng ý tối cần thiết của người đứng đầu bộ máy hành chính địa phương. Mục đích của các kỳ họp bất thường phải được nêu rõ và việc triệu tập phải bao hàm những chỉ dẫn về mục đích đặc biệt, xác định các vấn đề cần bàn trong phiên họp và Hội đồng cũng chỉ có thể bàn về những vấn đề đó.

Về quyền hạn, Hội đồng thành phố Quy Nhơn có quyền bàn bạc về những công việc của thành phố, ban hành những quyết nghị về tất cả những điều thuộc quyền Hội đồng thành phố quy định hoặc yêu cầu với sự cho phép của Khâm sứ Trung kỳ, đưa ra các nguyện vọng về mọi công việc có ích lợi của thành phố. Hội đồng có quyền bắt buộc thành phố phục tùng những quyết nghị của mình về các công việc như: hoạch định ngân sách thành phố về sổ sách kế toán hành chính, quy định thuế suất và những nguyên tắc thu thuế nhằm đem lại lợi ích cho thành phố, làm các khế ước về tài sản cho mượn hoặc cho thuê mướn của thành phố, xây dựng kế hoạch tu chỉnh về hệ thống giao thông lớn thuộc phạm vi đất đai thành phố và việc giao thông của nội thị, mở mang đường sá cùng các khu công nghiệp và đề ra phương thức tổng quát về đấu thầu các công trình công chính.

Toàn bộ những thảo luận và những quyết nghị của Hội đồng thành phố được ghi chép đầy đủ trong một cuốn sổ đặc biệt làm chuẩn mực văn bản tố tụng trước khi thi hành, với sự chấp thuận của thủ trưởng hành chính địa phương .
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top

Re: Tổ chức hành chính thời Pháp thuộc (1885-1945)

Postby Quy Ninh on Fri Jul 18, 2008 7:16 am

III. PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN Ở BÌNH ĐỊNH

1. Việc xét tuyển, bổ nhiệm, cách chức thuyên chuyển các quan lại Nam triều

Đối với đội ngũ quan lại ở các cấp tỉnh, phủ, huyện, đạo, châu ở tỉnh Bình Định trước đây đều do vua Nguyễn bổ dụng, thuyên chuyển, thăng giáng. Song dần dần việc đó bị giới cầm quyền thực dân Pháp ở Trung kỳ thâu tóm. Ngày 1.6.1904 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cho phép Thống sứ Pháp được quyền xem xét và ban cấp phẩm hàm cho quan lại người Việt ở Bắc kỳ. Quan lại từ Tòng Cửu phẩm đến hàm Tứ phẩm đều do Thống sứ trực tiếp quyết định mà không cần hỏi ý kiến của triều đình Huế, còn từ Tòng Tam phẩm trở lên thì do Thống sứ xét duyệt và Toàn quyền Đông Dương ra quyết định. Việc chỉ đạo quan lại và hoạt động của chính quyền cấp tỉnh của Nam triều ở Trung kỳ đều phụ thuộc vào Công sứ Pháp. Đối với quan lại hàm Chánh nhị phẩm xuống đến Tòng Lục phẩm thì việc bổ dụng, thuyên chuyển, thăng giáng, hưu trí khen thưởng, đều phải do Hội đồng Thượng thư họp bàn, xét duyệt dưới sự chủ tọa của Khâm sứ Pháp. Sau khi Khâm sứ quyết định, vua mới được ra văn bản. Danh sách những người nằm trong diện bổ dụng, thuyên chuyển... do Thượng thư Bộ Lại hoặc Thượng thư Bộ Hữu quan tập hợp trình lên vua và Khâm sứ, trước khi họp Hội đồng Thượng thư. Đứng đầu tỉnh Bình Định là Tổng đốc mang hàm Chánh nhị phẩm, giúp việc có 1 Bố chánh đặc trách thuế khoá hàm Chánh tam phẩm; Án sát hàm Tòng tam phẩm. Đứng đầu phủ có Tri phủ hàm Tam phẩm, huyện có Tri huyện hàm Ngũ phẩm.

Đối với quan lại từ hàm Chánh thất phẩm trở xuống đến Tòng cửu phẩm, đều do Thượng thư Bộ Lại, sau khi đã được Khâm sứ Pháp đồng ý, ký giấy bổ dụng, thuyên chuyển, thăng giáng, hưu trí... Những người có hàm Chánh thất phẩm sẽ được bổ dụng giữ chức Thừa phái hạng nhất và thổ Tri huyện hạng nhì, những người có hàm Tòng thất phẩm sẽ được bổ dụng giữ chức thổ Tri huyện hạng ba.

Đội ngũ Thừa phái và thổ Tri huyện này, hàng năm được tuyển từ ba nguồn sau: 2/5 từ học sinh tốt nghiệp trường Quốc Tử Giám, 2/5 từ học sinh tốt nghiệp bằng Cao đẳng tiểu học Pháp - Việt nhưng phải qua một kỳ thi tuyển về trình độ chữ Hán mà chương trình sẽ do Bộ Lại ấn định, sau khi đã được Khâm sứ Pháp thông qua, còn 1/5 tuyển từ những người đã đỗ từ Trung học, tức tú tài có bằng Cao đẳng tiểu học Pháp - Việt, sẽ phải qua một năm tập sự Thí sai Thừa phái rồi sau đó mới được mang hàm Tòng cửu phẩm để giữ chức Thừa phái hạng 6 và cứ 2 năm một lần sẽ được tăng trật. Có bằng Trung học sẽ được nhận hàm Tòng thất phẩm, sau một năm tập sự, tức tương đương với chức Thừa phái hạng nhì.

Muốn thi vào ngạch Thừa phái (tức ngạch thấp nhất trong giới quan trường theo đạo chỉ số 44 năm 1933), các thí sinh phải nộp đơn cho Bộ Lại, kèm theo chứng chỉ và căn cước do chính quyền cấp xã cấp, chứng chỉ và đạo đức do kỳ hào nơi mình cư trú cấp, có thị thực của quan phủ hoặc huyện và một chứng chỉ sức khoẻ, tuổi hạn chế từ 20 đến 30.

2. Sự quản lý toàn diện có tính quyết định của thực dân Pháp trong bộ máy chính quyền từ cấp tỉnh đến cấp cở sở.

Việc thâu tóm quyền lực của thực dân Pháp không chỉ dừng lại ở bộ máy chính quyền cấp tỉnh, mà còn xuống tận chính quyền cấp tổng - xã của Nam triều. So với Bắc kỳ (bắt đầu từ 1921), đối với chính quyền cấp xã ở Trung kỳ, thực dân Pháp nắm quyền quyết định có muộn hơn. Vào năm 1942, Hội đồng kỳ mục cấp xã ở Trung kỳ mới được ra đời, nhưng cũng bị thực dân Pháp nắm rất chặt. Ngay cả việc chỉ định người thay mặt Tiên chỉ (khi vắng mặt) trong các cuộc họp thường kỳ của Hội đồng cũng phải qua sự đồng ý của Công sứ Pháp. Không những thế, với Ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục thì số lượng và danh sách cụ thể của Ủy ban, việc giải tán Ủy ban, mặc dù do quan tỉnh người Việt ra văn bản, song phải được sự xét duyệt chẩn y của Công sứ Pháp. Việc ấn định số lượng Phó lý, ngũ Hương của từng xã, cấp văn bằng cho đội ngũ tổng - lý đều do Công sứ Pháp ấn định và ký xác nhận, quan tỉnh người Việt chỉ đứng danh nghĩa trên văn bản: Quyết định số lượng Phó tổng của mỗi tổng tuy do Thượng thư Bộ Lại quy định nhưng do Khâm sứ Pháp chuẩn y. Hàng ngũ tổng - lý khi bị hình thức kỷ luật như : khiển trách, buộc thôi việc... do quan tỉnh người Việt ra quyết định sau khi có sự đồng ý của Công sứ Pháp. Hình thức cách chức đội ngũ tổng - lý tuỳ thuộc quyền ra quyết định của Thượng thư Bộ Lại, nhưng phải được sự đồng ý của Công sứ Pháp. Việc cách chức đội ngũ tổng - lý tuỳ thuộc quyết định của Thượng thư Bộ Lại, nhưng phải có sự đồng ý của Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ.

Như vậy, dưới thời Pháp thống trị bộ máy chính quyền phong kiến triều Nguyễn ngày càng lệ thuộc, hoàn toàn đặt dưới sự điều hành và khống chế trực tiếp của thực dân Pháp. Ở tỉnh Bình Định sự khống chế đó bắt đầu từ quan Tổng đốc đứng đầu tỉnh cho đến bộ máy chính quyền cơ sở là tổng - xã. Mọi hoạt động của bộ máy chính quyền này đều hướng đến phục vụ công cuộc thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính quyền Nam triều chỉ tồn tại ở mặt hình thức và thực chất nó đã trở thành công cụ chuyên chính đắc lực cho công cuộc cai trị của Nhà nước thực dân tại Việt Nam.

Rõ ràng ở Trung kỳ lúc đó có sự tồn tại song song của hai hệ thống chính quyền: Nam triều do nhà vua đứng đầu và Pháp do viên Khâm sứ Pháp đứng đầu. Chính vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu gần đây gọi chế độ cai trị kiểu này là “Chế độ lưỡng thể”, là “Chế độ lưỡng thể về hành chính”, là “Chế độ lưỡng thể về chính trị và hành chính”. Song trên thực tế thì mối quan hệ giữa hai hệ thống chính quyền này hoàn toàn giống hệt lời tuyên bố của Khâm sứ Trung kỳ năm 1898, là “từ nay trên vương quốc An Nam không còn tồn tại hai chính quyền nữa, mà chỉ có một chính quyền duy nhất mà thôi” tức là chính quyền của thực dân Pháp. Bộ máy chính quyền các cấp của Nam triều từ năm 1885 đến 1945 ở tỉnh Bình Định thực chất cũng chỉ là công cụ thống trị của một Nhà nước tối cao: Nhà nước thực dân.
Quy Ninh
Đội phó
Đội phó
 
Posts: 2035
Joined: Sat Mar 22, 2008 9:03 am
Location: Quy Ninh - Gia Định
Has thanked: 0 time
Have thanks: 2 time
Blog: View Blog (0)
Top


Post a reply

Smilies
:D :) ;) :( :o :shock: :? 8-) :lol: :x :P :oops: :cry: :evil: :twisted: :roll: :bye: :think: :!: :?: :idea: :arrow: :| :mrgreen: :geek: :ugeek: em22 em36 em26 em39 :no1: em29 em35 em31 em34 em32
Quote Selected
 

Return to THIÊN NHIÊN DÂN CƯ VÀ HÀNH CHÍNH

Who is online

Users browsing this forum: Alexa [Bot] and 0 guests