1. Thành Hoàng Đế (Thành Chà Bàn)
Thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn 27 km (17 miles) về hướng Tây Bắc. Thành được xây dựng vào cuối thế kỷ 10, dưới triều đại vua Yangpuku Vijaya. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chămpa và các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Di tích hiện nay không còn nguyên vẹn, chỉ còn sót lại các bức tường thành. Tường thành xây bằng đá ong, có hào, đường lát đá hoa cương.
Toàn cảnh khu vực khai quật Tử Cấm thành Hoàng đế Tây Sơn.
Trong thành có những di tích cũ của người Chăm như giếng vuông, tượng nghê, voi, bên cửa hậu có gò Thập Tháp, trên gò vốn có 10 ngôi tháp Chàm. Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 m (60 ft), góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, 2 voi đá và nhiều tượng quái vật. Chùa Thập Tháp Di Đà nằm ở phía Bắc thành, chùa Nhạn Tháp ở phía Nam thành là những ngôi chùa cổ. Trong đó còn giữ được nhiều di tích, hiện vật liên quan đến văn hóa Chămpa và phong trào Tây Sơn.
Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung Ương Hoàng đế, đóng đô ở đây, gọi là Hoàng Đế thành; mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn. Năm 1799, thành bị quân nhà Nguyễn chiếm, đổi gọi là thành Bình Định. Năm 1814, nhà Nguyễn phá bỏ thành cũ, xây thành mới, cách thành cũ khoảng 5 km (3 miles) về phía Nam.
2. Nhà Bảo Tàng Quang Trung:
Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc có công dẹp loạn trong nước và đánh đuổi quân xâm lược. Năm 1788 ông thống lĩnh đại quân từ Phú Xuân (Huế) hành quân thần tốc 35 ngày đêm ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long (nay là Hà Nội). Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Quang Trung.
Nhà bảo tàng Quang Trung và tượng đài anh hùng được dựng trên khu đất nơi sinh ra Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, xã Bình Thạnh, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 45 km (28 miles).
Bức tranh về trận Rạch Gầm - Xoài Mút được treo tại bảo tàng Quang Trung
Đến bảo tàng Quang Trung, du khách được xem các hiện vật trưng bày ở đây về những chiến tích của vua Quang Trung. Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức điệu múa trống võ Tây Sơn , một môn võ truyền thống của Bình Định. Đặc biệt cô gái biểu diễn trống trận Quang Trung là cháu đời thứ 9 trong một gia đình có truyền thống "chơi" trống trận.
3. Thành Thị Nại:
Thành Thị Nại một thời từng là trung tâm của vương quốc Chămpa trong quá trình di chuyển từ đất Quảng Nam vào Quảng Ngãi trước áp lực của nhà nước phong kiến Đại Việt. Thị Nại là đô thị cổ đại duy nhất và lớn nhất của vương quốc Chămpa tồn tại trong suốt 5 thế kỷ (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15). Thị Nại cũng là cảng khẩu ven đầm, gần biển với hai chức năng quân cảng và thương cảng.
Theo các cứ liệu nghiên cứu lịch sử cho biết niên đại của thành Thị Nại (hay cảng Thị Nại) được xây cất sớm nhất là vào năm 803, muộn nhất là năm 1000, khi người Chàm dời vào đóng đô ở Đồ Bàn thì thành đã có rồi. Thành Thị Nại cách bờ Đông của đầm Thị Nại 5 km (3 miles), cách thành Đồ Bàn 22 km (14 miles) ở phía Tây - Tây Bắc, cách Tháp Đôi 24 km (15 miles) về hướng Đông - Đông Nam. Thành hiện còn dài 200 m (600 ft), dày khoảng 3 m (9 ft), cao còn 1,8 m (5.4 ft). Bờ thành nằm dọc sông Côn thuộc xã Phước Quang và một phần xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước.
4. Chùa Thập Tháp (Thập Tháp Di Đà Tự)
Chùa Thập Tháp do nhà sư Nguyên Thiều (pháp danh Siêu Bạch) được xây dựng vào năm 1665, thời chúa Nguyễn Thái Tông, Nguyễn Phúc Tần, tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, ở cách thành phố Qui Nhơn 27 km (17 miles) về hướng Tây Bắc. Chùa tọa lạc trong phạm vi thành Đồ Bàn, đế đô của vương triều Chămpa cũ, trên một ngọn đồi thoáng mát có dòng suối Bàn Khê chảy bao quanh cùng với hồ sen tạo nên một khung cảnh tĩnh mịch. Trong khuôn viên chùa là vườn cây ăn trái xanh tốt.
Chùa Thập Tháp
Chùa có lối kiến trúc phương Đông theo hình chữ "khẩu" với 4 khu chính: Chính điện, Phương trượng, Đông đường và Tây đường. Chính điện có Đại Hùng bảo điện và 2 gian thờ phụ hai bên. Bên trong , nội thất trang trí, chạm trổ tinh vi với các họa tiết hoa sen, xấp sách, hoa cuộn trên gỗ quí, những đường nét rồng bay, phượng múa, cách điệu rất trang nhã. Chùa xây bằng loại gạch nung màu đỏ lấy từ 10 tháp Chàm đã đổ nát ở đồi Long Bích, nên mới có tên gọi Thập Tháp. Nhiều người cho rằng chùa còn tọa lạc trong vùng Uyển Lăng của các triều đại vua chúa Chăm trước vì chùa vẫn còn 3 giếng Chàm hình vuông, nước ngọt, trong vắt.
5. Chùa Long Khánh:
Tọa lạc tại trung tâm thành phố Qui Nhơn, chùa được xây dựng dưới thời vua Lê Dụ Tông (thế kỷ 18). Chùa là nơi truyền bá tín ngưỡng Phật giáo trong vùng thời bấy giờ. Hiện nay chùa còn lưu giữ 2 hiện vật quý :
- Thái Bình Hồng Chung (chuông Hồng Thái) được đúc vào năm 1805, triều vua Gia Long.
- Tấm dấu biểu trưng "Long Khánh Tự" được in vào năm 1813 triều vua Gia Long.
Chùa Long Khánh
Nguồn vietshare.com.