Tìm hiểu võ thuật : các môn phái .

"Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền"

Moderator: lehavu

Tìm hiểu võ thuật : các môn phái .

Postby lehavu on Mon Jul 05, 2004 4:01 pm

Võ thuật muôn hình vạn trạng , chúng ta tự hào về võ Bình Định nhưng ngoài ra cũng còn có rất nhiều môn võ khác với những đặc trưng và nghệ thuật không thể chối cãi.Mời quí vị cùng đóng góp cho chủ đề này với những thông tin về mọi môn phái .Do phụ thuộc vào nguồn tài liệu sưu tầm được nên sự sắp xếp có thể không theo qui luật nào …

KARATE DO

Nguồn gốc:
Karatedo có lịch sử lâu dài hơn 100 năm .Môn võ bắt đầu từ Thiếu Lâm Tự bên Trung Quốc , sau đó du nhậpp vào đảo Okinawa , Nhật Bản và được uốn nắn theo kỹ thuật chiến đấu của người địa phương trong thời kỳ các lãnh chúa phong kiến ở đây.Sau đó phó vương Kagoshima ở phía Nam đảo Kagoshima cấm dùng võ khí nên những người địa phương lại một lần nữa nâng cao nghệ thuật chiến đấu bằng tay chân .
Sư phụ Funagoshi Gichin (1867-1955) được coi là tổ sư của Karatedo vì Người đã có công hệ thống hoá và chính thức đưa Karatedo trình diễn trứơc công chúng .Hội Karatedo Nhật Bản được thành lập năm 1955 với HLV trưởng là tổ sư Funakoshi Gichin .Đến nay trên thế giới đã có hàng triệu người theo tập Karatedo ở trên 150 nước.
Tại Việt Nam , Karatedo được đưa vào những năm 60 do thầy Choji – Suzuki (1919-1995) .Những năm đó Karatedo phát triển rất mạnh ở Huế rồi lan ra Đà nẵng , Nha trang , Sài Gòn… và tạo thành hệ phái SUZUCHO-KARATEDO
Last edited by lehavu on Thu Jul 08, 2004 5:21 pm, edited 2 times in total.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

KARATE DO (tt)

Postby lehavu on Mon Jul 05, 2004 4:03 pm

Ý nghĩa Karatedo :
Karatedo tiếng Nhật có nghĩa là Không thủ đạo (bàn tay không).Thầy Funakoshi Gichin đã đưa ý nghiã của nó ra rằng “Karatedo là 1 nghệ thuật dũng mãnh , đồng thời cũng có ý nghĩa là tu luyện tinh thần luân lý”.
Về giá trị tinh thần , Karatedo cho chúng ta một tâm hồn phong phú khoáng đạt , khoan dung yêu nghệ thuật .Chúng ta làm chủ được tình cảm , cảm xúc và ước vọng của mình .Chúng ta sáng suốt , quán thông kiên quyết hành động và khai thác khả năng tiềm ẩn trong con người của mình để ứng dụng triệt để vào cuộc sống .Karatedo tô đắp cho chúng ta thêm sự hăng say sống và làm việc , lòng yêu thương con người , giúp đỡ chan hoà với tất cả .
Về giá trị thể chất :Cùng với sự tập luyện Karatedo chúng ta đã tạo cho mình 1 sức khoẻ dồi dào , một sức mạnh vô địch giúp tâm hồn ta ung dung tự tại , thanh thản .Đó là những điều kiện kiên quyết để đạt được thành công trong cuộc sống.

Võ phục :Bộ Kimônô của môn sinh Karatedo màu trắng , luôn luôn giữ sạch sẽ, không được quá bẩn.Trên áo phía trái có phù hiệu của môn phái ( tôi thấy ở Việt nam nay thì như là phù hiệu của liên đoàn).Đeo đúng màu đai đã đực phong .Đai thắt đứng cách đan điền 3 cm về phía dưới .Mỗi bên đai sáu khi thắt không dài hơn hoặc ngắn hơn 15 cm , rộng 4 cm.Độ dài tối thiểu của tay áo không ngắn quá ½ cẳng tay .Tay áo không được xắn lên .Quần cũng phải đủ dài để che 2/3 cẳng chân và cũng không được xắn lên.

Tiếng Kiai : Là một loại tiếng thét đặc biệt không ngân nga , thét lên để làm hồi sinh một người đang bất tỉnh , hoăc để trấn áp chế ngự một địch thủ hay làm người đó chết giấc.
Luyện tiếng Kiai còn để tiêu diệt sự phân tán tinh thần , tạo một ý chí sắc đá và làm cho tinh thần trong sáng mở đường cho sức mạnh tuôn ra.
Khi thét tiếng Kiai 2 lá phổi và đan điền đầy khí trời , miệng ngậm kín , cằm đưa vào , xương sống thẳng đứng với đất .Thình lình ép bụng gồng cứng các bắp thịt bụng để đưa đan điền ra trước cùng lực miệng hét tiếng Kiai hoặc tuỳ chọn .Tiếng Kiai phải “ nổ “ to.Động tác này gây một sức ép đối với các cơ quan nội tạng , có tác dụng làm cho không khí thoát khỏi lá phổi thật mạnh để cho hết ám khí .Nếu ngậm miệng kín hiệu quả sẽ ngược lại .
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Karate do (tt)

Postby lehavu on Mon Jul 05, 2004 4:04 pm

Hệ Phái SUZUCHO-KARATEDO : ( do thầy Choji – Suzuki làm chưởng môn ) bắt nguồn từ Takenno –Uchi –Ruy ở Nhật bản mà sáng tổ là thiền sư một ngôi chùa cổ ở Nagasaki .Toàn bộ hệ thống triết học của hệ phái được ngầm chứa trong 9 bài quyền : 6 bài Yên ( Yên : tiếng Nhật nghĩa là đồng tiền , sự giàu có .Giàu cái gì ?Quá trình rèn tập krt là quá trình tự thăng hoa mình .Làm giàu thêm cho mình tri thức , kỹ năng , cách sống .Giúp mình tự tin hơn , trầm tĩnh hơn .Biết kiên trì nhẫn nại , biết yêu thương con người , biết bao dung tha thứ.Nghĩa là giúp mình thông minh hơn , khoẻ hơn , đẹp hơn.) và 3 bài Maki ( Maki : là cuộn , là quyền , là quyền lực .Thế nào là Quyền :Quá trình rèn tập krt là quá trình đạt đến sức mạnh tự thân , giúp con gnười có đử quyền năng trước maọi tác động ngoại lực : nóng lạnh , gió mưa , bệnh tật , giàu sang ,nghèo khổ , thắng thua , vinh nhục , được mất….Con người hoàn toàn làm chủ bản thân mình.Trạng thái của sự tự tại , tự chủ .)
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

LịCH Sử PHÁI KYOKUSHIN KARATE

Postby lehavu on Mon Jul 05, 2004 4:06 pm

Masutatsu Oyama , sinh ngày 27 tháng 7 năm 1923 tại một ngôi làng trên bán đảo Nam Triều Tiên. Năm 9 tuổi khi ở với chị gái tại Manchuria , ông bắt đầu học võ thuật với môn Kempo Trung Quốc ( một dạng Kungfu ) được biết đến với cái tên "18 tay". Năm 1938 Mas Oyama chuyển sang sống ở Nhật bản với mong ước trở thành một phi công. Ông tiếp tục học judo và boxing tại đây và niềm đam mê võ thuật đã dẫn ông tới võ đường của Gishin Funakhôngshi (cha đẻ của Shotokhan).
Với nhiệt huyết của mình , Oyama tiến bộ nhanh tới mức năm 20 tuổi ông đã là một đai đen bốn đẳng trong cả Judo lẫn Karate. Cũng vào thời gian này ông gia nhập quân đội đế quốc Nhật bản.
Sau thất bại của Nhật bản trong chiến tranh thế giới thứ 2, Oyama cũng giống như tất cả thanh niên Nhật Bản khác chìm trong một cuộc khủng hoảng tinh thần. Nhưng ông đã tìm được lối thoát bằng lyện tập với So Nei Chu , một đại cao thủ Hàn Quốc của phái Goju-ryu Karate. Người thầy vĩ đại này với sức mạnh và tinh thần đã ảnh hưởng sâu sắc tới Oyama. So Nei Chu dayj Oyama võ thuật không thể tách rời với triết lý của đạo Phật. Sau vài năm luyện tập vị cao thủ khuyên Oyama cống hiến cả đời cho võ thuật và ẩn mình trong núi để luyện tập.
Năm 1946 Mas Oyama quyết tâm xa rời xã hội để lên núi luyện tập. Ông mang theo một học trò Yashiro và một người bạn hàng tháng tiếp tế thức ăn cho hai thầy trò. Trải qua luyện tập gian khổ Oyama học cách chế ngự cảm giác cô đơn ( ông không gặp bất kì ai trong thời gian này) nhưng Yashiro không chịu nổi và bỏ đi sau 6 tháng. Hàng ngày Oyama luyện tập 12 tiếng và ông dành nhiều thời gian để nghiên cứu đạo Phật. 14 tháng sau người tài trợ cho Oyama không thể tiếp tục chu cấp nên kế hoạch luyện tập 3 năm trên núi phải chấm dứt.
Vài tháng sau Oyama chiến thắng trong cuộc thi võ tự do toàn Nhật bản. Tuy vậy Oyama vẫn muốn hoàn thành 3 năm luyện tập trên núi. Vì thế ông quyết định lên núi luyện tiếp 18 tháng. Sau khoảng thời gian đó ông hoàn toàn làm chủ được bản thân và hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của xã hội xung quanh mình.
Năm 1950 Oyama bắt đầu thử sức mạnh của mình với bò tót. Tổng cộng ông đã đấu với 52 con bò , trong đó 3 con chết tại trận, 49 con còn lại bị chặt gẫy sừng bằng tay không !!. Nói vậy nhưng không phải tất cả đều dễ dàng với Oyama. Năm 1957 ông gần như bị giết tại Mexico khi bị một con bò tót đâm vào lưng, Oyama bằng cách nào đó đã đẩy con bò ra và chặt gẫy sừng của nó. Ông phải nằm trên giường 6 tháng để phục hồi từ vết thương chết người đó.
Năm 1952 , ông đi khắp nước Mỹ biểu diễn ,quay phim và nhận thách đấu .Ông nhận tổng cộng 270 người thách đấu . Và đây là kết quả :
-Ông thắng tất cả các trận
_ Đại đa số các trận đấu được kết thúc bằng 1 cú đấm !!!
_ Không có trận nào quá 3 phút và ít có trận nào quá vài giây .
( những người thách đấu toàn là vận động viên vật , đấm bốc chuyên nghiệp và võ sĩ )
Chiến thuật của ông rất đơn giản , nếu đối phương để ông đánh qua người , thế là hết !
Nếu bị ông đánh, coi như xong, nếu bạn muốn đỡ cú đấm của ông tay bạn sẽ gẫy hoặc lệch khớp. Nếu không đỡ .... tự hiểu hìhì. Ông đuợc mọi người gọi là "bàn tay của Chúa " (giống Maradona Smile). Ông thực hiện đúng tôn chỉ của võ đạo Nhật bản "một đòn , giết một ". Với ông đó chính là mục tiêu của kỹ thuật Karate . Những cú đá đẹp mắt và những động tác hấp dẫn khác chỉ là thứ phụ.
Năm 1953 ông mở võ đường (dojo) đầu tiên tại Mejiro Tokyo (tập trên cỏ). Năm 1956 võ đường thực sự đuợc mở ở một trường múa balê . Năm 1957 có khoảng 700 người theo học môn này mặc dù số người bỏ là 90% do việc tập luyện quá gian khổ.
Trụ sở của Kyokushin chính thức mở năm 1964, cái tên Kyokushin nghĩa "sự thật cuối cùng" được đặt ra. Hiện nay Kyokushin có mặt ở 120 quốc gia với 10 triệu môn sinh và là một trong những phái lớn mạnh nhất trên thế giới. Trông số các võ sinh của Kyokushin co : Tổng thống Nelson Mandela ở Nam Phi ,thủ tướng Úc John Howard.
Năm 1994 Oyama mất do bệnh ung thư. Cùng lúc đó có sự chia sẽ trong nội bộ môn phái này cũng như Shotokan sau khi Funakhôngshi chết. Kancho Shokei Matsui hiện là trưởng môn chính thức của phái tuy bị nhiều người không công nhận.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Vài nét về nguồn gốc Judo.

Postby lehavu on Tue Jul 06, 2004 3:56 am

Muốn hiểu sâu về môn Judo, chúng ta cần tìm tận nguồn gốc phát sinh ra môn Jijitsu (Nhu thuật) vì chính môn võ cổ truyền này đã là nền tảng cho Jigoro Kano sáng lập ra môn Judo ngày nay.
Vào thời trung cổ, ở nước Nhật có người thầy thuốc tên là Sirobel Akiyma cảm thông với nỗi đau khổ và sự yếu đuối của con người trước thiên nhiên và bạo lực, ông sang Trung Quốc nghiên cứu những phương pháp giúp con người khoẻ mạnh và chiến đấu dẻo dai. Một thời gian dài lưu lại tại đây, ông đã học hỏi khắp nơi, nhưng các môn võ thuật Trung Quốc thời bấy giờ không đáp ứng sự mong muốn. Ông thất vọng trở về nước , trên đường về, Akiyma ghé vào đền Dazaifu để rèn luyện môn Zen trên 100 ngày.
Vào một sáng mùa đông, bão tuyết phủ trắng cả cỏ cây vạn vật, một hiện tượng tuy thông thường nhưng làm ông đặc biệt chú ý: Dưới sức nặng của tuyết phủ, cành sồi to lớn tưởng như vững chắc bị gẫy đổ, ngược lại những cây trúc chỉ uốn mình theo sức nặng rồi lại vươn lên tươi tốt sau cơn giống tuyết. Cảnh tượng ấy kích thích trí tưởng tượng của Akiyma. Ông chợt nảy sinh ra ý nghĩ "Hãy lấy sự mềm dẻo đối chọi với cứng rắn. Theo ông càng cứng rắn càng dễ bị gẫy đổ trước sức mạnh, cũng như cành sồi to lớn kia dưới sức mạnh của giông tuyết".
Tư tưởng trên đã trở thành nguyên lý căn bản cho một môn võ công mang tên là Jujitsu do Akiyma khởi xướng. Sau đó theo thời gian, môn Jujitsu phát triển không ngừng và lớp người sau đã sáng tạo thêm nhiều đòn thế hiểm độc dành riêng cho giới quý tộc Nhật bản trong các trận tử chiến.
Jigoro Kano là một người đạt được đỉnh cao của môn Jujitsu và từ nền tảng của môn võ này ông đã sáng lập ra một trường phái mới mang tên Judo. Theo định nghĩa của người Nhật bản, Judo là "đường lối uyển chuyển" về nguyên tắc ông Kano nói: "Sức lực ít hiệu năng nhiều", nghệ thuật dùng sức nằm gọn trong bí quyết đơn giản "Khi bị đẩy thì kéo, khi bị kéo thì đẩy". Ta thử tưởng tượng một người khoẻ dùng sức đẩy một người yếu. Thay vì đẩy lại, người yếu lại dùng sức mình kéo luôn đối phương về phía mình, khiến họ mất thăng bằng. Ngay thời điểm này, với một thế căn bản của môn Judo người yếu quật ngã đối phương dễ dàng. Như vậy chủ trương của môn Judo không tấn công đối phương, chỉ khi nào bị tấn công người võ sinh Judo mới phát huy đòn thế. Lý giải từ nguyên tắc trên, Kano và hàng môn sinh cao cấp của ông qua bao thế hệ, đã sáng tạo bồi đắp nên một hệ thống kỹ thuật rất phong phú và đa dạng được lưu truyền và phổ biết đến ngày nay.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Jigoro Kano - người sáng lập môn phái Judo

Postby lehavu on Tue Jul 06, 2004 4:00 am

Jigoro Kano - người sáng lập môn phái Judo
Jigoro Kano sinh ngày 28 tháng 10 năm 1860 tại phủ Mikage, tỉnh Hypgo (gần vịnh Osaka) Nhật Bản. Thủa nhỏ Kano là một cậu bé thông minh, hiền lành nhưng ốm yếu, thường bị bạn bè bắt nạt. Mang nặng mặc cảm ấy nên cậu bé Kano nuôi ước vọng sớm trở thành một người khoẻ mạnh, đầy đủ sức lực để mọi người khỏi xem thường. Năm Kano lên 10 tuổi trong một trận đấu bóng đá, cậu bị vây đánh đến ngất xỉu vì sự xích mích giữa hai đội. Nhưng rất may, Kano được một đồng đội giỏi Jujitsu (Nhu thuật) kịp thời giải cứu, sau đó cậu chơi thân với người bạn này và khởi luyện môn Jujitsu. Sự nghiệp võ thuật của Kano bắt đầu từ đó.
Bước đầu tiên trên con đường võ học, Kano gặp nhiều khó khăn. Cậu đã đến xin học với nhiều võ sư giỏi Jujitsu nhưng đều bị từ chối, mãi đến năm 1877 trong thời gian theo học trường Đại học chính trị kinh tế, Kano mới trở thành học trò của Fuduka, một võ sư nổi tiếng và đức độ trong giới Jujitsu thời bấy giờ. Ước nguyện đã thành hiện thực, người sinh viên 17 tuổi này ra công luyện tập. Nhờ đức tính hiền hoà cần mẫn, Kano được thầy Fuduka quý mến. Chẳng bao lâu Kano trở thành một võ sỹ Jujitsu tài ba.
Năm 1879 thầy Fuduka mất. Kano tiếp tục học võ với võ sư Mattaemon-Iso vị thầy này không những là võ sư Jujitsu mà còn là một tay kiếm thuật tài danh. Thầy Iso rất quý mến Kano, bằng lòng nhận học trò nối nghiệp. Tại võ đường Tenjin Shinkage của thầy Iso có anh chàng võ sinh khổng lồ tên Fukushima to khoẻ, nặng cả tạ. Lần nào tập thi đấu Fukushima cũng quật Kano xuống sàn dễ dàng. Kano nhỏ bằng nửa Fukushima nhưng hơn anh ta ở chỗ quyết tâm và kiến thức của chàng sinh viên Đại học Hoàng gia ở Tokyo. Kano quyết lợi dụng ưu điểm này của mình để có ngày quật ngã cho được bạn đồng môn to lớn này. Anh luyện tập không ngừng nghỉ và tham khảo tất cả các sách báo về môn võ vật mà anh có. Hôm đó như thường lệ, chàng khổng lồ Fukushima tập với Kano và có ý xem thường người võ sinh nhỏ con này. Nhưng vừa di chuyển được vài bước Fukushima thấy mình bị mất thăng bằng chới với đằng trước, nhanh như cắt Kano tiến sát vào người anh ta, rùn thấp người gánh Fukushima lên vai, quay một vòng ném xuống nệm! Chuyện khó tin nhưng có thật, Fukushima vừa đau vừa giận, đứng lên tấn công ngay Kano, nhưng một lần nữa Fukushima thấy mình hỏng chân và bị quật ngã xuống nệm, Kano chiến thắng! Anh đã thành công một đòn mới do anh nghĩ ra, đó là đòn Kata Guruma.Đến năm 1881, Jigoro Kano trở thành một cao thủ của phái Tenjin Shinyo. Chưa thoả mãn với trình độ đã đạt được, Kano xin sang học với một hệ phái Jujitsu khác-hệ phái Kito có trưởng môn là võ sư Isunetoshi Iikubo, võ sư Iikubo rất giỏi về kỹ thuật Nage Waza (kỹ thuật quật ngã) và cũng rất chú trọng tự do đối luyện. Kano đồng thời luyện tập rất chăm chỉ, còn tiếp tục nghiên cứu cải tiến các kỹ thuật đã học dựa trên những nguyên lý khoa học. Ông đã kết hợp những "đòn ruột" của hệ phái Tenjin Shingo là kỹ thuật khoá làm đối phương bị bất động (Katame Waza) và kỹ thuật tấn công các yếu huyệt (Atemi Waza) với kỹ thuật ném-quật (Nage Waza) của hệ phái Kito, hạn chế đi những kỹ thuật nguy hiểm để trở thành hệ thống luyện tập phù hợp với tinh thần thể dục thể thao. Cũng năm 1881, Kano tốt nghiệp khoa triết học sau khi tốt nghiệp Đại học chính trị kinh tế vào năm 1880 và trở thành một giảng viên ở trường Đại học Peers dành cho con cháu các nhà quý tộc, nhờ có thực tài sau ông được cử làm cố vấn Bộ Giáo dục, rồi Khoa trưởng Đại học Sư phạm Đông Kinh, Khoa trưởng đệ ngũ cao đẳng viện Đông Kinh. Tuy nhiên phần lớn thời giờ trống, Kano dành hết cho võ thuật.
Năm 1882-một năm đáng ghi nhớ-Kano vẫn học ở võ đường Kito nhưng đồng thời lập riêng cho mình một võ đường ở đền Eishoji, võ đường đầu tiên của môn Judo. Võ đường này lúc đầu có 9 học sinh cũng từ võ đường Kito chuyển sang. Thực ra lúc này chương trình học vẫn còn ảnh hưởng nặng của Jujitsu và mỗi tuần 2-3 lần, võ sư Iikubo sang giúp cho Kano huấn luyện, cho đến một ngày.... Hôm đó, Kano tập randhoặci (tự do đối luyện) với thầy mình là võ sư Iikubo, Iikubo tấn công nhưng đều bị Kano phá được và với kỹ thuật mới sáng tạo, anh đã quật vị trưởng môn Kito ngã liên tục trên 3 lần. Trước sự kinh ngạc của Iikubo, anh học trò Kano đã giải thích cho thầy mình nghe những nguyên lý mà mình vừa tìm ra, chủ yếu là kỹ thuật kuzushi tức là cách làm cho đối phương mất thăng bằng theo các hướng khác nhau để có thể quật ngã họ. Sau khi nghe xong, ông Iikubo tỏ vẻ thán phục và nói : "Từ nay anh sẽ trở thành thầy của tôi". Ngay sau đó, ông Iikubo đã trao quyền trưởng môn Kito cho Kano và trở thành huấn luyện viên giúp cho Kano, người mà trước đó còn là học trò của mình.
Kano dành hết thời gian sau khi dạy văn hoá là chăm sóc võ đường ở đền Eishoji. Ông đã dùng tiền của mình để giúp võ phục quần áo cho các võ sinh nghèo. Nhưng thầy trò Kano luyện tập hăng quá, sàn của ngôi đền cổ kính không chịu nổi sức ném sầm sập nên vị chủ trì đề nghị thầy trò dời sang nơi khác. Kano đã dời võ đường về tại nhà mình ở Khôngjimachi và năm 1884, Kano đặt tên cho võ đường là Kodokan, tiền thân của võ đường Kodokan ngày nay. Theo nguyên nghĩa, Không có nghĩa là tưởng niệm, do là đạo, kan là căn phòng, Khôngdokan có nghĩa là đạo đường để tu luyện tinh thần. Như vậy Kano đã sáng lập ra môn võ mới với tên gọi là Judo, Ju là nhu, do là đạo. Kano chủ ý thay chữ "jitsu" của Jujitsu bằng chữ "do" vì ông muốn Judo như là một cách rèn luyện cả thể chất lẫn tinh thần, một quan niệm sống có ý nghĩa triết học, chứ không thuần tuý chỉ là những kỹ thuật chiến đấu, dù là tự vệ. Vì thế các đòn nguy hiểm của Jujitsu bị hạn chế tối đa, kỹ thuật Atemi vẫn còn dậy nhưng chỉ rành riêng cho các võ sinh cao cấp có đức tính tốt và khả năng tự chủ. Một khác biệt quan trọng giữa Judo và Jujitsu là kuzushi, tức kỹ thuật làm đối phương mất thăng bằng, sau đó chỉ dùng một lực nhỏ cũng làm cho họ bị quật ngã. Sau này, theo Kazuzo Kudo, cao đồ 10 đẳng của Kano và là tác giả của bộ sách nổi tiếng "Dynamic Judo": kỹ thuật Kuzushi là cốt lõi của Judo, chính nó làm phân biệt được giữa Judo và Jujitsu đồng thời đưa Kano trở thành tổ sư của môn Judo.
Tuy vậy lúc ban đầu, võ đường Kodokan ra đời là cái gai giữa xung quanh là môn võ Jujitsu nên đã gây ra sự tranh chấp lớn. Những cuộc tranh tài giữa các môn đồ của hai phái thường xảy ra từ võ đài đến ngay ở ngoài đường phố. Nhưng cũng từ đó Judo đã nhanh chóng chứng minh được ưu thế của mình, võ sinh Judo đã thắng trong nhiều cuộc tranh tài, đáng kể nhất là năm 1885, võ đường Kodokan đã đoạt giải quán quân trong một giải quan trọng tranh tài cùng với môn Jujitsu, từ đó môn võ Judo trở nên nổi tiếng thu hút nhiều học viên và ngày càng đẩy lùi môn Jujitsu vào bóng tối.
Dưới thời Minh Trị, nước Nhật mở rộng cửa đón nhận nền văn minh Âu Châu, do đó trong thời gian từ 1889 đến 1893, Kano có dịp đi giới thiệu Judo ở các nước Châu Âu. Năm 1897, võ đường Kodokan dời về Shimotomizaka và lúc này, dưới sự kiểm soát của Kodokan đã có hơn 250 võ đường Judo khắp nước Nhật. Sau đó sang đầu thế kỷ XX, Judo được Bộ giáo dục Nhật bản chính thức đưa vào huấn luyện ở các trường học của Nhật từ cấp 1 đến đại học.
Từ năm 1909, Kano nhiều lần đại diện nước Nhật hướng dẫn đoàn vận động viên Nhật đi tham dự các thế vận hội Olympic, giáo sư đã được sự chấp thuận của Uỷ ban tổ chức Olympic giới thiệu môn Judo với thanh niên các nước trên thế giới về dự Đại hội, tinh thần môn võ Judo rất phù hợp với tinh thần thể thao của Olympic. Nhờ vậy, những năm sau môn Judo được phổ biến rộng rãi, các phân viện của Kodokan lần lượt được thành lập tại nhiều nước trên thế giới. Lần cuối cùng, sau khi tham dự Olympic năm 1938 tổ chức ở Le Caire (Ai Cập) trên đường trở về ông Jigoro Kano đã từ trần ngày 4-4-1938, thọ 79 tuổi.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

KIẾM ĐẠO (KENDO)

Postby lehavu on Thu Jul 08, 2004 5:12 pm

KIẾM ĐẠO (KENDO)

Kiếm là 1 trong hnững vũ khí được con người sử dụng nhiều nhất trong thời phong kiến,khắp nơi từ Âu sang Á.Vũ khí và binh giáp của ngườI Nhật ngày xưa có chịu ảnh hưởng phần nào từ Trung Quốc,trong đó có thanh kiếm.Khi xông trận.các kỵ sĩ trang bị áo giáp,mũ trận dày,nặng,1 tay cầm yên ngựa,tay kia cầm kiếm.Thanh kiếm thời đó có hình dạng thẳng,cấu trúc đơn giản,thường dùng để chém và đâm, động tác chiến đấu cũng chưa được tinh xảo.Theo truyền thuyết thì đến thế kỷ thứ 8,thanh kiếm với lưỡi hơi lượn cong,cán dài cấu trúc đặc thù Nhật bản được 1 thợ rèn tên là Amakumi chế tạo tại tỉnh Yamoto.Song,theo những tài liệu đáng tin cậy hơn,thanh kiếm cong độc đáo như ngày nay chúng ta thấy xuất hiện vào thế kỷ thứ 10(năm 940) dướI thời Heian do 1 nghệ nhân tài ba về nghề luỵên kiếm tên là Hoki rèn. Đây chính là loạI kiếm được sáng tạo và rèn luyện rất công phu,chủ yếu để sử dụng bằng cả 2 tay khi chiến đấu. Đương nhiên,kèm theo đó là 1 số kỹ thuật công,thủ cơ bản cũng được giới thiệu.Nhận thức được sự lợI hạI của thanh kiếm mớI,nhiều kiếm sư và kiếm sĩ bèn làm 1 cuộc cách tân về vũ khí và chiêu thức tập luyện.Trước tiên nó được dùng trong các buổI giao đấu giữa các kiếm thủ và dần sau đó trở nên phổ biến trong quân độI thuộc quyền các lãnh chúa và dùng trên chiến trường ở qui mô lớn,bởI nó có hiệu quả đặc biệt hơn hẳn loạI kiếm thẳng.Đã có kiếm dài (trường kiếm-tachi,hay còn gọI là katana) thì phải có kiếm ngắn và thanh đoản kiếm (kodachi,hay còn gọI là wakizashi) được chế tạo cũng theo kiểu dáng cong cong tương tự.Kiếm ngắn chỉ sử dụng khi lâm nguy(mất kiếm dài >_<) và để dùng trong nghi thức seppuku(mổ bụng tự sát,1 hành động vì danh dự của samurai,hay còn gọI là harakiri)
Có thể nói từ đây môn kiếm thuật Nhật bản Kenjitsu với những đặc trưng riêng đã được hình thành.Những kiếm sĩ thành danh thường xây dựng hệ thống kỹ thuật riêng để lập nên những trường phái,rồi cứ thế được lưu truyền từ đời này sang đời khác.Tinh hoa nghệ thuật cũng theo đó dần dần phát triển thêm lên.Tuy nhiên phảI đến cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15,bài tập đốI luyện kiếm thuật (kata) với tổ hợp động tác công-thủ-phản công có qui ước mớI được đưa vào hệ thống nghiên cứu huấn luyện.Và vào cuốI thế kỷ 15,kiếm gỗ (bokken) mới được đưa vào sử dụng trong những buổi tập luyện.Thời này lý thuyết chung về kiếm thuật đã được hoàn thiện nhằm mục đích huấn luyện giới samurai.Không chỉ vậy,lý thuyết này còn được kết hợp với tư tưởng Nho giáo để xây dựng 1 triết lý về phong cách sống và hành động của giới võ sĩ đạo (bushido).Theo 1 số thư tịch cổ thì từ thế kỷ 15-17 trên toàn nước Nhật có khoảng 600 trường phái kiếm thuật(hơi bị nhìu nhỉ ^_^),chưa kể các môn võ thuật khác.Những trường phái này cũng là nơi cung cấp nhân tài phục vụ đắc lực cho các vị lãnh chúa hoặc Tướng quân (shogun)
Thế kỷ 16-17 đánh dấu 1 bước phát triển của nghệ thuật sử dụng kiếm.Khởi đầu từ kiếm sư Shekisu-sai(1527-1606),người sáng lập trường phái Yagiu Shinkage, được tướng quân Tokugawa Ieyashu bảo trợ.Trước đó thanh kiếm chỉ được xem như là 1 vũ khí giết ngườI và ngườI ta luyện tập cũng vì mục đích ấy.Nhưng do Shekisu-sai có kiến thức có kiến thức về đạo học và mốI liên hệ gần gũi với thiền sư Takuan(1573-1645), ông đã truyền giảng cho môn sinh khái niệm về sự cảm nhận tâm linh đạt được qua việc luyện tập kiếm thuật.Người con ông là Munenhori(1571-1646),1 kiếm sĩ tài ba, đã biên soạn Fudochi-Shinmyhoặcoku,nộI dung kể về kinh nghiệm trực ngộ Thiền đạo trong kiếm thuật.Yagiu Shinkage,cũng như Maniwa Nen,Shinkatato….là những trường phái tiên phong trong khuynh hướng chuyển từ Kiếm đạo sang Kiếm thuật(Kendo); đồng thời đưa kiếm tre(shinnai) vào tập luyện,thi đấu để hạn chế tốI đa những thương tích,tử vong do kiếm thật bằng thép và cả kiếm bằng gỗ cứng gây nên.Kiếm tre ban đầu được chế tạo bằng cách dùng 4 mảnh tre dài ghép lạI đút vào 1 cái bao dài bằng da cáo hoặc da bò thuộc,chưa có miếng là chắn che tay(tsuba).Về sau được Nakanishi Chuba,môn đệ của Ono Tadaaki cải tiến với bao vải thay thế bao da,thêm miếng lá chắn vào,và trọng lượng-kích thước gần bằng kiếm thật,song có hình dạng thẳng.
Làng kiếm đạo Nhật bản ghi nhận 1 điểm son lịch sử với kiếm sĩ huyền thoạI Miyamoto Musashi.Sinh năm 1854,thụ giáo kiếm thuật với thân phụ từ khi còn thơ ấu,năm 13t Musashi đã sớm đạt được vinh quang khi đánh bại 1 đấu thủ lớn hơn cả về tuổI đời lẫn tuổi nghề trong 1 cuộc tranh tài trước mặt nhiều cao thủ.Từ đó về sau,trảI hơn 60 trận thư hùng trên khắp nước Nhật,chưa 1 tay kiếm nào thủ hoà nổI trước lưỡI kiếm của Musashi.Năm 29 tuổi,sau trận đấu để đời với kiếm thủ thượng thừa Sasaki Kojiro,mà chiến thắng vẫn thuộc về chàng,Musashi rờI bỏ chốn võ lâm lui về ẩn cư.Chàng dốc toàn tâm toàn lực suy nghiệm để khám phá chân lý.Hơn 20 năm sau, ở tuổI 50,con ngườI bất khả chiến bại ấy đã giác ngộ
Vào tuổI lục tuần,Musashi viết tác phẩm Ghorin-no-Sho(Ngũ luân thư) ,bao hàm khái luận về Kiếm đạo của ông,với lý thuyết chiến lược và triết lý cuộc sống.Tác phẩm này được xem như kinh điển,không chỉ trong võ thuật mà còn với công việc quản trị,và hơn thế nữa là cách sống.
Đến thế kỷ 18,ngoài kiếm tre và sàn tập bằng gỗ trở nên phổ biến tạI các trường phái dạy kiếm,các dụng cụ hỗ trợ luyện tập như giáp che ngực,mặt nạ,mũ che đầu ,găng tay bảo vệ…cũng được cách tân từ binh giáp truyền thống để trang bị cho môn sinh.Sang thế kỷ 19,kiếm đạo phát triển rộng trong quần chúng cũng như nhiều môn võ khác,không còn thu hẹp trong giới Samurai.Vào giữa thế kỷ này,nhiều cuộc biễu diễn kiếm đạo được tổ chức cho công chúng xem tại nơi công cộng,có thu tiền.Không ít kiếm sư giương danh võ lâm qua những cuộc lưu diễn và thách đấu với ngườI khác.Nhưng chỉ vài thập niên sau,khi văn minh cơ giới phát triển.Súng ống, đạn dược nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí trên chiến trường.Thanh kiếm oanh liệt suốt bao thế kỷ chỉ còn tồn tại bên ngườI quân nhân với công dụng thứ yếu(đánh giáp lá cà) hoặc như 1 biểu tượng quyền hành chỉ huy. Đồng thời về mặt xã hộI,thời điểm các lãnh chúa bị Minh Trị thiên hoàng thu hồi quyền lực cũng chính là lúc kết thúc thời vàng son của giới samurai.Những kiếm thủ phải về vườn hoặc chuyển nghề,nhiều môn phái phảI đóng cửa.Tình trạng này khiến các bậc thầy tâm huyết với kiếm đạo lo âu không ít >_<
Trong bối cảnh đó 1 sự kiện lớn gây chấn động làng võ Jap đã xảy ra,vào năm 1882 :võ sư Jigoro Kano,1 thiên tài võ thuật trẻ tuổI bắt đầu truyền bá môn Nhu đạo ( Judo ) mà ông đã dày công nghiên cứu,sáng tạo sửa đổi thêm từ môn Nhu thuật ( Jujitsu ) cổ truyền.Thành công nhanh chóng của Kano với môn võ giàu tính thể thao, được xem như đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục tinh thần và thể xác theo xu thế thời đại mới, đã trở thành nguồn cảm hứng khơi dậy ngọn lửa trong lòng các kiếm sư.Kiếm đạo bắt đầu thâm nhập vào học đường,tại 1 số trường trung học và đại học.Năm 1912,cùng với Nhu đạo,Kiếm đạo được chính thức đưa vào chương trình huấn luyện thể dục ở bậc trung học áp dụng trên toàn nước Nhật.Năm 1928,liên đoàn kiếm đạo Nhật Bản được thành lập,tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉnh lý hệ thống tổ chức,kỹ thuật,phương pháp huấn luyện, điều luật thi đấu…Môn sinh theo học ngày 1 đông hơn,phát triển sang các nước lân cận và cả châu Âu,châu Mỹ.Năm 1971 liên đoàn kiếm đạo quốc tế ( International Kendo Federation-IKF) được thành lập,và cũng từ đây giảI vô địch kiếm đạo thế giới được tổ chức theo thông lệ 3 năm 1 lần(có tư liệu khác cho rằng IKF được thành lập năm 1970 và mớI đầu là tổ chức năm/lần).Hiện nay số thành viên của IKF bao gồm 37 đơn vị liên đoàn và hiệp hộI thuộc hơn 30 nước trên thế giới
1 chi tiết đáng ghi nhận là trong quá trình phát triển môn kiếm đạo hiện đại có sự đóng góp ở mức độ nhất định của tổ sư môn Judo Jigoro Kano. Ông là người đặt ra hệ thống đẳng cấp (dan-kyu) được áp dụng ngày nay.Chính liên đoàn kiếm đạo nhật bản JKF (Japan Kendo Federation) cũng thừa nhận điều này vào năm 1958.Là 1 nhà sư phạm lớn,1 đại sư thấm nhuần triết lý võ đạo,Kano luôn sẵn sàng hỗ trợ,tạo điều kiện cho các môn phái võ thuật đồng hành phát huy vì sự nghiệp giáo dục chung,không chỉ với kiếm đạo mà với cả Không thủ đạo ( Karate-do ).Khi võ sư Gichin Funakosi từ đảo Okinawa đến Tokyo để truyền bá nghệ thuật này,Kano đã dành cho ngườI đồng đạo võ lâm 1 phần diện tích tạI võ đường Khôngdokan (Giang đạo quán) của ông để mở lớp dạy Karate-do trong nhiều năm
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Hiệp khí đạo (aikido) là gì?

Postby lehavu on Fri Jul 09, 2004 3:27 pm

Hiệp khí đạo (aikido) là gì?

Xuất phát từ một thời kỳ tối tăm ở phương Ðông, bấy giờ chỉ có một số người biết, Aikido đã được mệnh danh là một môn võ thuật thanh cao và khôn ngoan nhất. Ở một trình độ cao hơn, Aikido được biết đây là một phương pháp hữu hiệu để phát triển, toàn thiện, cùng xử dụng hết các khả năng của con người, cả về thể chất lẩn tinh thần.

Thoạt mới nhìn, Aikido có thể được coi như là một phương pháp dùng để tự vệ một cách hữu hiệu chống lại bất cứ một hình thức tấn công nào. Hơn thế nữa, Aikido còn được coi như là một " Dung Pháp ", một con đường kiện toàn trí óc và thân thể, điều hòa các năng lực thể xác và tinh thần của một cá nhân trở thành một con người hoàn toàn hơn.

Thực vậy, danh từ Aikido ( Hiệp Khí Ðạo ) có nghĩa là : " một phương pháp, con đường ( đạo ) đưađến sự dung hợp, hòa điệu ( hiệp ) các năng lực tinh thần hay sinh khí ( khí ). Ðây là một môn võ phối hợpcác thế tự vệ rút tỉa từ các môn đánh giáo, kiếm, nhu thuật, AikiJitsu và một số môn võ bí truyền khác .
Ngay từ đầu, khi nhấn mạnh về việc tập trung đặc biệt vào tư tưởng và hành động, cùng sự khoáng trương năng lực tinh thần hay khí lực tiềm tàng nơi con người khiến Aikido khoác một bộ mặt khó hiểu.

Ðây là một phương pháp tự vệ duy nhất có thể thích ứng và hữu hiệu hầu đối phó với một hoặc nhiều đối thủ . Ði sâu vào phần thực hành, Aikido còn cho thấy những kết quả tập luyện thường khi rất đẹp mắt và hơn nửa, theo những cách thế thực hành thích hợp với mọi lứa tuổi và giới tính.

" Nhưng tại sao chúng ta lại nói rằng Aikido là một phương cách duy nhất ? "

Hầu hết, các môn võ thuật đều cho rằng mình là một môn võ có những phương cách tự vệ hữu hiệu và an toàn cho mọi người . Như vậy Aikido khác biệt ở chỗ nào ?

Các lý do chúng ta có thể kể ra là :

1. Aikido chỉ thuần túy tự vệ, bất đắc dỉ, chẳng đặng đừng phải phản ứng, bảo vệ lấy mình khi bị tấn công chứ không bao giờ tự gây hấn trước. Aikido hoàn toàn không có những thế, những kỹ thuật tấn công. Ở trình độ cao, các kỹ thuật tự vệ luôn luôn được nhắc nhở và nhấn mạnh là không được hủy hoại hoặc gây tổn thương nặng cho đối thủ .

2. Ðặt nặng chú tâm đến " HARA " ( trọng tâm ) là điễm tập trung năng lực của con người, đó là Khí, là Nội lực và hơn nửa có thể khoáng trương, phát triển ý niệm đó trên các phương diện khác nửa, chứ không chỉ ở trong phạm vi chật hẹp của võ thuật mà thôi.

3. Aikido có những phương cách riêng, một chiến lược đặc biệt bao gồm các động tác, các cách thế di chuyển và các kỹ thuật căn bản áp dụng trên đường tròn hay vòng cầu một cách linh động và uyển chuyển
Aikido bảo rằng chúng ta nên và phải tự bảo vệ lấy chính mình.
Aikido cung cấp cho chúng ta vốn liếng thực hành rộng rãi, khả dĩ giúp chúng ta gặt hái được một kết quả hữu hiệu tối đa .
Và Aikido cũng còn nhắc nhở chúng ta phải chịu trách nhiệm về những phản ứng tự vệ, mặc dù là chính đáng nhưng hãy " làm sao đừng gây những tổn hại không cần thiết cho đối phương "
Ðây có thể chỉ là ở trình độ thấp mà thôi . Vì nếu đã đạt đến một trình độ cao, vừa có sự khéo léo, vừa có sự tự tin vững vàng và với một kỹ thuật điêu luyện, phản ứng nhạy bén, chúng ta sẽ thừa sức tự vệ mà không phải dùng đến các kỹ thuật thô bạo, tàn nhẫn .

( . . trích đoạn từ " Aikido and the Dynamic Sphere " của A. Westbrook and O. Ratti, 1992. . .) bản dịch của Nguyễn Hiền
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

AIKIDO - võ của tình thương và sự hoà hợp

Postby lehavu on Sun Jul 11, 2004 4:29 pm

AIKIDO - võ của tình thương và sự hoà hợp

AI là hoà, KI là khí, DO là đạo. Aikido tức là sự hài hoà giữa khí lực. Đây là môn võ nghệ thuật xuất hiện ở nước ta từ những năm 50, dưới sự dìu dắt của thầy Đặng Thông Trị. Trải qua bao thăng trầm Aikido đang tìm lại vị trí của mình trong làng võ thuật VN. Những thế võ của Aikido khác với những môn võ khác như: Nhẹ nhàng, uyển chuyển, không tốn nhiều công lực. Có OSAE (đè, giữ..), NAGE (ném, dùng khí lực ném người khác đi). Tuỳ thuộc vào trạng thái, sức khoẻ của mỗi người mà có cách thể hiện khác nhau. Có những lúc ta nghe những tiếng động mạnh trên sàn tập, nhưng có những lúc ta thấy các võ sư nhẹ nhàng lướt trên sàn không một tiếng động. Võ và nghệ thuật của Aikido là vậy.
Mục đích của Aikido là đem đến cho con người sức khoẻ, trí lực và tự vệ. Môn võ Aikido có khả năng tự vệ rất cao, có thể giúp ta tay không mà tước vũ khí của đối phương . Nhưng với tôn chỉ "Võ đạo ta là võ đạo của tình thương và sự hoà hợp" nên chỉ là tiêu diệt ý đồ của đối phương chứ không tiêu diệt con người đối phương. Thêm một điều thú vị ở Aikido là trong quá trình giao đấu, ở những đòn hiểm luôn đưa tay ra đỡ đầu đối phương nhằm tránh cho đầu đập xuống đất (?). Một môn sinh Aikido cho biết thêm: "Khi bước vào giao đấu chúng tôi phải chào tổ sư, chào thầy và những ai đeo đai đen, sau đó là chào nhau. Điều đó ngầm hiểu rằng tôi muốn giao lưu học hỏi và sẽ không có sự tương tranh nào cả". Đó cũng là lý do giải thích tại sao Aikido không bao giờ tổ chức những cuộc thi thố tranh giải mà chỉ là những cuộc hội ngộ để giao lưu và học hỏi. Mọi người cùng hướng dẫn nhau tập luyện, không phân biệt màu da, tuổi tác, giới tính. Đây chính là điều mà Aikido "Dễ làm người xem xúc động" nên họ sẵn sàng ủng hộ và theo học Aikido, góp phần làm cho Aikido ngày một lớn mạnh.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Postby lehavu on Sun Jul 11, 2004 4:54 pm

Chương trình huấn luyện AIKIDO ở Việt Nam (mong các bạn có thể cập nhập chính xác thêm)
Đai trắng lên Kyu 6
UKEMI WAZA : kỹ thuật các thế té
- Koho tento undo (Ushiro ) : té ngữa ra sau
- Zenpokaiten undo (mae) : té lăn tới trước
1. GYAKU HANMI:
2. AIHANMI:
Waza : đòn kỹ thuật
- Shiho Nage (Khoá số 6)
- Kote Gaeshi (Khoá số 7)
- Ikkyo (omote) (Khoá số 1)
Lễ thức trong AIKIDO
KYU 5
1.GYAKU HANMI:
2. AIHANMI :
- Kokyu Nage : 1_4 ( đòn ném)
- Koshi Nage : 1_2 ( đòn hông)
Waza :
- Shihonage Khoá số 6
- Kote Gaeshi Khoá số 7
- Ikkyo ( ura ) Khoá số 1
- Nikyo Khoá sô 2
3. SHOMEN UCHI (chém thẳng)
4.YOKOMEN UCHI (chém xiên)
- Kokyu Nage : 1_4
Waza :
- Ikkyo
- Shiho Nage
- Kote Gaeshi
Võ đạo là gì ?
KYU 4
1. GYAKUHANMI:
2. AIHANMI
- Kokyu Nage : 1_6 ( đòn ném )
- Koshi Nage : 1_3 ( đòn hông )
- Irimi Nage : ném nhập nội
Waza :
- Shiho Nage - Nikyo
- Kote Gaeshi - Ikkyo
- Sankyo ( khoá số 3 )
3. SHOMEN UCHI
4. YOKOMEN UCHI
- Kokyu Nage : 1_6
- Koshi Nage : 1_3
- Irimi Nage
Waza :
- Ikkyu – Shiho Nage – Kote Gaeshi
5. RIO KATA TETORI ( 2 tay nắm 1 tay )
6. RIO TETORI ( 2 tay nắm 2 tay )
- Kokyu Nage : 1_ 4
Waza :
- Shiho Nage – Kote Gaeshi
Tiểu sử của Tổ sư
KYU 3
1. GYAKU HANMI :
2. AIHANMI
- Kokyu Nage : 1_8 / Irimi Nage
- Koshi Nage : 1_4/
- Kaiten Nage : Ném tay xoay vòng
Waza :
- Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo -Nikyo – Sankyo – Yonkyo ( khoá số 4 )
3. SHOMEN UCHI
4. YOKOMEN UCHI
- Kokyu Nage : 1_8 / Koshi Nage : 1_3
- Irimi Nage
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo-Nikyo – Sankyo – Yonkyo
5. RIO KATA TETORI
6. RIO TETORI
- Kokyu Nage : 1_6 / Irimi Nage
- Koshi Nage
- JuJi Garami ( khoá chéo 2 tay )
Waza :
- Shiho Nage – Kote Gaeshi
- Ikkyo – Nikyo
7. CHOKU TSUKI
Kokyu Nage : 1_6 / Irimi Nage
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi
Ikkyo – Nikyo
Lịch sử Aikido Thế giới
KYU 2
1. GYAKU HANMI
2. AIHANMI
3. SHOMEN UCHI
4. YOKOMEN UCHI
- Kokyu Nage : 1_10
- Kokyu Kumi Nage 1_4
- Koshi Nage : 1_5
- Irimi Nage / Kaiten Nage
- Udekime Nage ( Ném khoá thẳng tay )
- Aiki Otoshi ( Ném hất bổng )
- Sumi Otoshi ( Ném chặn góc )
- Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo – Nikyo- Sankyo – Yonkyo – Gokyo ( Khoá số 5 )
5. RIO KATA TETORI
6. RIO TETORI
- Kokyu Nage : 1_8 / Irimi Nage / Kaiten Nage/Kokyu Kumi Nage 1_4 / Koshi Nage
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo – Nikyo – Sankyo
7. CHOKU TSUKI
- Kokyu Nage : 1_6 / Irimi Nage / Udekime Nage
- Koshi Nage 1_4 / Kaiten Nage
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi –Ikkyo – Nikyo – Sankyo – Yonkyo
8. MUNE TORI
9. SODE TORI
- Kokyu Nage : 1_4
Waza : Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo
10. FUTARI GAKARI
a. Shomen Uchi
b. Yokomen Uchi
Thời gian : 25 giây
Yêu cầu :
- 13 lần đánh
- Từ 3 – 5 kỹ thuật
11. TANTO TORI
Shomen Uchi : Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikky
Lịch sử Aikido Việt Nam
KYU 1
1. Gyaku Hanmi
2.AIHANMI
3. SHOMEN UCHI
4. YOKOMEN UCHI
- Kokyu Nage : 1_12
- Kokyu Kumi Nage 1_6
- Koshi Nage : 1_6
- Irimi Nage / Kaiten Nage
- Udekime Nage
- Aiki Otoshi
- Sumi Otoshi
- Ude Garami ( Khoá chéo cùi chỏ )
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo
Nikyo – Sankyo – Yonkyo – Gokyo
5. RIO KATA TETORI
6. RIO TETORI
- Kokyu Nage : 1_10 / Irimi Nage / Kaiten Nage
- Kokyu Kumi Nage 1_6 / Koshi Nage 1 _6
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo –Nikyo – Sankyo – Yonkyo
7. CHOKU TSUKI
Kokyu Nage : 1_8 / Irimi Nage / Udekime Nage
Koshi Nage 1_6 / Kaiten Nage
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi
Ikkyo – Nikyo – Sankyo – Yonkyo
8. MUNE TORI
9. SODE TORI
- Kokyu Nage : 1_6 / Koshi Nage 1_2
- Irimi Nage / Kaiten Nage
Waza : Shiho Nage – Kote Gaeshi – Ikkyo – Nikyo
10. FUTARI GAKARI
a. Yokomen Uchi
b. Tsuki
Thời gian : 30 giây
Yêu cầu :
- 15 lần đánh
- Từ 3 – 5 kỹ thuật
11. TANTO TORI
12. TANPO TORI
a. Shomen Uchi :
b. Yokomen Uchi :
c. Choku Stuki :
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi - Ikkyo
Nikyo – Sankyo
13. MUNE UCHI
a. Shomen Uchi
b. Yokomen Uchi
- Kokyu Nage 1_4 / Koshi Nage 1 _2
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi
Ikkyo – Nikyo – Sankyo
14. USHIRO TETORI
15. USHIRO SODE TORI
- Kokyu Nage 1_6 / Kokyu Kumi Nage 1_4
- Koshi Nage 1_4 / Aiki Otoshi
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi
Ikkyo – Nikyo – Sankyo
16. SUWARI WAZA
a. Uchi Waza
b. Dori Waza
Waza :
Shiho Nage – Kote Gaeshi
Ikkyo – Nikyo – Sankyo
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

VOVINAM - VÕ THUẬT VÀ NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC

Postby lehavu on Thu Jul 15, 2004 3:37 pm

.Vovinam-Việt võ đạo (VVN) do cố võ sư Nguyễn Lộc sáng tạo tại Hà Nội. Ông sinh ngày 24/5/1912, nguyên quán ở làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Với vốn võ và vật dân tộc, ông nghiên cứu thêm nhiều môn võ khác nhằm hình thành môn võ mới phù hợp với thể tạng của người Việt Nam. Công trình nghiên cứu hoàn thành vào mùa thu năm 1938, ông đặt tên là Vovinam và mang ra huấn luyện thử nghiệm cho một số thân hữu... Ngót một năm sau, ông đưa lớp môn sinh này ra mắt quần chúng tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thành công rực rỡ và lớp tập VVN công khai đầu tiên khai giảng tại trường Sư phạm Hà Nội vào mùa xuân 1940. Từ đó, các lớp võ liên tục mở ra ở nhiều nơi...
Từ giữa những năm 50, VVN được phổ biến tại Sài Gòn, Gia Định, Đà Lạt... Sau khi ông Nguyễn Lộc qua đời (ngày 29/4/1960; hưởng dương 49 tuổi) tại Sài Gòn (nay là TPHCM), các môn đệ kế nghiệp đã sắp xếp lại bộ máy, chương trình huấn luyện, thi cử, đẳng cấp... mang tính khoa học và hiện đại hơn. Nhờ thế, phong trào dần dần phát triển mạnh tại hầu hết các tỉnh phía Nam. Từ khi lớp huấn luyện được mở ra trong các trường học (khoảng 1966), danh xưng Vovinam được bổ sung thành Vovinam-Việt võ đạo để thanh thiếu niên chú trọng đến tinh thần dân tộc khi luyện võ hầu phấn đấu hoàn thiện bản thân về 3 phương diện: Tâm - Trí - Thể, nhằm phục vụ cho dân tộc và nhân loại. Và theo chân các du học sinh, bộ môn xuất hiện ở một số nước châu Âu từ năm 1973.
Sau ngày đất nước thống nhất, nhằm tạo điều kiện cho VVN phát triển, ngành TDTT các tỉnh, thành và Tổng cục TDTT đã cho tổ chức giải vô địch cấp tỉnh, thành phố và toàn quốc từ năm 1992. Vài năm sau còn có thêm các giải khu vực, Trẻ, Thiếu niên, Hội khỏe Phù Đổng. Trải qua 11 giải vô địch cấp quốc gia, số đoàn tham dự ngày càng đông, trình độ VĐV ngày một tiến bộ; đặc biệt, từ năm 1997, võ sĩ giành thành tích cao tại giải vô địch toàn quốc được Ủy ban TDTT phong cấp như các môn thể thao khác. Vài đơn vị mạnh ở giải toàn quốc trong vài năm gần đây là: TPHCM, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bến Tre, Cần Thơ, Quân đội... Song song đó, 3 lớp tập huấn ở Thanh Hóa, Hà Tây, Quảng Bình dành cho các tỉnh phía Bắc đã tạo điều kiện cho khu vực này xây dựng bộ môn và hòa nhập dần vào phong trào chung. Tính đến đầu năm 2002, VVN quy tụ khoảng 30.000 môn sinh thường xuyên luyện tập ở hầu hết các tỉnh phía Nam và một số tỉnh phía Bắc.
Trên bình diện quốc tế, các môn sinh VVN của TPHCM, BR-VT, Quân đội... từng được ngành TDTT cử tham dự nhiều cuộc Liên hoan Võ thuật truyền thống quốc tế tại Thái Lan, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản... Những tiết mục biểu diễn hấp dẫn và nghệ thuật của VVN đã góp phần giúp bè bạn năm châu hiểu thêm về đất nước và con người Việt Nam, được người xem nhiệt liệt tán thưởng và giới võ thuật truyền thống thế giới quan tâm. Ngay từ cuối năm 1996, sau khi hướng dẫn đoàn võ thuật Việt Nam (Võ cổ truyền và VVN) tham dự Lễ hội Văn hóa Thể thao truyền thống thế giới lần thứ 2 ở Thái Lan, Trưởng đoàn Trương Quang Trung đã báo cáo cùng lãnh đạo Tổng cục TDTT:”... Khán giả rất hâm mộ, Ban tổ chức đánh giá cao chất lượng biểu diễn của đoàn. Đặc biệt, chương trình biểu diễn của Vovinam - Việt võ đạo làm cho khán giả rất khâm phục...”. Một số nước đã mở lớp tập VVN như: Pháp, Đức, Ý, Thụy Sĩ, Hà Lan, Anh, Romania, Ba Lan, Tây Ban Nha, Úc, Mỹ, Canada, Morocco, Algeria, Nga, Belarus... Với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, nhiều đoàn môn sinh nước ngoài đã về đất tổ để tập huấn, thi thăng đai, tham dự Hội diễn quốc tế...
Dựa trên nền tảng võ và vật dân tộc, đồng thời nghiên cứu tinh hoa của các môn võ khác trên thế giới để dung nạp, thái dụng và hóa giải, nhất là cải tiến nền tảng kỹ thuật của mình theo nguyên lý Cương - Nhu phối triển, thế nên hệ thống kỹ thuật của Vovinam - Việt võ đạo (VVN) khá phong phú, nhưng vẫn có một số nét đặc trưng.
Đặc trưng nổi bật nhất là tính thực dụng. Thay vì phải mất một thời gian luyện tấn, tập đi quyền rồi mới học phân thế, võ sinh VVN được HLV hướng dẫn ngay các thế khóa gỡ (khi bị nắm tóc, nắm áo, nắm tay, bóp cổ, ôm ngang...), phản đòn căn bản (khi bị đấm, đá, đạp...) song song với những kỹ thuật gạt, đấm, đá, chém, té ngã... ngay từ các buổi tập đầu tiên. Tính thực dụng này nhằm giúp võ sinh có thể tự vệ hữu hiệu được ngay, vì võ sinh không chỉ tập trung thời gian cho luyện võ.
Đặc trưng tiếp theo là tính liên hoàn. Một đòn thế VVN tung ra luôn luôn phải có tối thiểu từ 2 - 3 động tác. Thí dụ: muốn chống đòn đấm thẳng tay phải (trình độ 1) của đối phương, võ sinh sẽ bước chân trái sang bên trái cùng lúc dùng tay phải gạt tay đấm đối phương để tránh né; sau đó phản công bằng cách dùng tay trái chém vào mắt hay mặt và kết thúc bằng cú đấm thấp tay phải vào bụng đối phương; hoặc thế chiến lược (liên hoàn tấn công) số 1 bao gồm cú chém úp bàn tay vào mắt hoặc mặt, bồi thêm cú đấm thấp tay phải vào bụng và tiến chân phải lên, dùng chỏ phải đánh vào thái dương của đối phương. Nói chung, có thể đó là vài động tác liên hoàn bằng tay (chém, xỉa, đấm, bật, chỏ...), hay bằng chân (đá, đạp, quét, cài, móc...), hoặc đòn tay đi kèm với đòn chân (chém quét, triệt ngã...). Lối ra đòn này nhằm chiếm thế thượng phong khi tự vệ và chiến đấu, phù hợp với thể tạng gọn gàng và nhanh nhẹn của người Việt Nam, đồng thời cũng là biện pháp dự phòng trường hợp 1 - 2 động tác ban đầu đánh chưa trúng đích.
Hệ thống kỹ thuật VVN còn tuân thủ nguyên lý Cương - Nhu phối triển. Lúc bị tấn công, võ sinh thường né tránh (nhu), rồi mới phản công (cương). Song song đó, VVN cũng có nhiều kỹ thuật tấn công nhưng vẫn đảm bảo nguyên lý này. Chẳng hạn, khi tung một cú đá tấn công hoặc phản công (cương) vào thân thể đối thủ, võ sinh phải dùng tay che mặt và bảo vệ hạ bộ để thủ (nhu). Ngay trong phương pháp luyện tập té ngã (không nguy hiểm, không đau), võ sinh phải lên gân và co tròn thân người lại (cương), sau đó lăn tròn thân người lúc ngã xuống (nhu) để hóa giải lực tấn công của đối phương và sức rơi của trọng lượng cơ thể. Nhờ vậy, võ sinh VVN tập luyện đòn thế và té ngã trên sàn gạch bình thường như trên thảm.
Như các môn võ khác, kỹ thuật VVN cũng vận dụng các nguyên lý khoa học như: lực ly tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm đá, đánh chỏ... theo hình vòng cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẩy (các thế bẻ, khóa, gài, móc, chặn...), lực xoáy (các thế đấm thẳng...), lực co gấp và sức bật (các đòn quăng, quật, vật, nhảy...).., nhằm giúp võ sinh ít hao tốn sức lực khi thi triển đòn thế mà vẫn đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt, chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng lúc nhưng nghịch chiều), triệt ngã (lực tay và lực chân đánh cùng lúc và cùng chiều) cùng các thế quặp cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất cẩn, lảo đảo) trong hệ thống đòn chân cơ bản được sử dụng để đánh ngã đối phương cũng là một đặc trưng kỹ thuật quan trọng của VVN.
Một điểm đáng chú ý khác là các bài đơn luyện (quyền tay không, quyền có binh khí), song luyện (2 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế theo quy ước), đa luyện (3-4 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế theo quy ước) chính là sự kết nối hợp lý các khóa gỡ, các thế phản đòn căn bản... để tạo điều kiện thuận lợi cho võ sinh ôn luyện. Đây là nguyên tắc “một phát triển thành ba” trong hệ thống kỹ thuật của bộ môn.
Hơn một thập kỷ qua, VVN lại có thêm một số bài Nhu khí công quyền dành cho tất cả võ sinh và một số bài liên hoàn đối luyện dành cho người có tuổi bao gồm những động tác nhẹ nhàng và không té ngã.
Được bổ sung liên tục trong gần 40 năm qua, hệ thống đòn thế, bài bản tay không và cả vũ khí (dao, kiếm, côn, búa, mã tấu, tay thước, đao, đại đao...) của VVN đảm bảo những đặc trưng cơ bản ban đầu, cũng như vừa mang tính truyền thống Việt Nam và vừa mang tính hiện đại.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Võ Đang

Postby lehavu on Thu Jul 15, 2004 3:38 pm

Núi Võ Đang còn có tên là núi Thái Hòa, ở Tây Bắc tỉnh Hồ Bắc, ở bờ Nam sông Hán. Ngọn núi chính là HảI Bạt cao 1612m, chu vi hơn 800 dặm. Đây là khu phong cảnh rất nổI tiếng, là đất thánh của võ thuật Đạo giáo. Đạo giáo ở Võ Đang sơn bắt đầu từ đờI Chu do Dõan Hy mở.
Năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1412) Minh thành tổ Châu Đệ lệnh cho xây dựng cung quán ở núi Võ Đang, dùng đến rất nhiều lương tiền trong kho nhà nước, trưng dụng quân dân hơn 30 vạn ngườI kéo dài 11 năm; từ châu thành Cổ Quân có cung Vĩnh Lạc đến Kim Điện trên Thiên Trụ Phong lát đường bằng đá xanh dài hơn 70km, dọc đường xây dựng 8 cung, 2 quán, 36 am, 72 miếu đá, 39 cầu, 12 đình đài… thành cả một kiến trúc vĩ đạI, tổng diện tích xây dựng là 160 vạn mét vuông. Quy mô rất to, tổn phí cực lớn chưa từng có.
NộI gia quyền Võ Đang đã ra đờI trong điều kiện lịch sử và không gian văn hóa như vậy.
Về ngườI sáng lập ra nộI gia quyền Võ Đang Trương Tam Phong thì có 2 thuyết do ngườI thờI Bắc Tống (960-1127) và ngườI đầu thờI Minh (1368-1644) đặt ra. Về lai lịch Trương Tam Phong sáng tạo ra NộI gia quyền cũng có 2 thuyết. Một thuyết bảo đêm ông nằm mộng thấy thần Chân Võ truyền dạy quyền pháp, sau khi trờI sáng một ngườI giết cả trăm giặc vì thế mà kỹ thuật giao đấu nổI tiếng ở đời. Một thuyết bảo Trương Tam Phong quan sát hạc và rắn đánh nhau, hạc từ trên cây sà xuống đánh con rắn dài nằm khoanh tròn, Rắn dài đang tĩnh chợt động, tránh né có hướng, do đó Trương hiểu rõ “lấy tĩnh chế động, lấy nhu khắc cương” là một đạo lý. Quyền Võ Đang là võ thuật giao đấu, lạI dung hợp các giáo nghĩa của Đạo giáo như “lấy mềm yếu thắng cứng mạnh”, “xử hiền giữ mềm mỏng”… Xét từ công phu tập luyện đã quán thông các phương pháp tu luyện của Đạo giáo như ngưng thần chuyên ý, ý khí cùng dùng, v.v… Quyền pháp, kiếm thuật Võ Đang về sau trở thành nộI dung trọng yếu của giáo đồ tu hành Đạo giáo, thể ngộ ý nghĩa của tôn giáo, đồng thờI còn dùng làm khỏe mạnh thân thể.
TrảI qua diễn biến mấy trăm năm, công phu nộI gia của Võ Đang từ bài nhập môn sơ đẳng nhất, năm bài mườI ba thế quyền dần dần phong phú lên và hình thành rất nhiều phân chi như Thái Cực quyền, Bát quái chưởng, Hình Ý quyền, Võ Đang kiếm, Võ Đang bát cực quyền, Võ Đang đồng tử công, Huyền võ côn, Tam hợp đao, Long môn thập tam thương v.v… Trong các phân chi này lạI còn sinh ra nhiều phái không giống nhau. Như Thái Cực Quyền lạI chia thành 5 nhánh là Trần – Dương – Ngô – Võ – Tôn v.v… Bát quái chưởng cũng chia thành các phái Dõan – Trình – Lưu - Tống v.v… Hình Ý quyền cũng chia thành Hình ý quyền Sơn Tây, Hình ý quyền Hà Bắc, Hình ý quyền tổng hợp. Công phu NộI gia quyền Võ Đang vớI lắm môn nhiều phái như trên đã hợp thành bộ phận tổ thành cực kỳ quý báu của võ thuật Trung Hoa.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

VĨNH XUÂN QUYỀN

Postby lehavu on Fri Jul 16, 2004 5:23 pm

Lịch sử môn Vịnh Xuân Quyền (hay Vĩnh Xuân Quyền)

Lịch sử của Vịnh Xuân Quyền bắt nguồn với những làn sóng chống lại nhà Mãn Thanh xâm lược Trung hoa vào năm 1644. Những tổ chức như Thiên Địa hội và Hồng hội với tôn chỉ Phản Thanh phục Minh. Rất nhiều cao thủ võ lâm đã tham gia các tổ chức này, trong đó có các bậc tiền bối của Vịnh Xuân Quyền.
Cái tên Vịnh (Vĩnh) Xuân Quyền bắt nguồn vào thời kì này *. Vì việc cần thiết giữ bí mật vào lúc đó, trải qua nhiều thế hệ, đã dẫn đến nhiều mơ hồ mà rất khó có thể lọc ra được nguồn gốc thực sự của Vịnh Xuân Quyền từ những huyền thoại được truyền kể. Thời điểm đầu tiên khi lịch sử của Vịnh Xuân Quyền có thể được lần ra một cách tin cậy bắt nguồn vào giữa thế kỷ 19 với Hồng Thuyền hội quán.

Hồng Thuyền hội quán
Hồng Thuyền hội quán là một nhóm các diễn viên lưu động trong tỉnh Quảng Đông với các màn biểu diễn và ca kịch, nhào lộn và võ thuật. Cái tên Hồng Thuyền bắt nguồn từ việc con thuyền của họ được trang trí rực rỡ khi họ đi lại trên các con sông giữa Zhaoqing, Phật Sơn và Quảng Châu.
Việc các diễn viên có thể di chuyển dễ dàng, hoá trang và phục trang tuỳ theo vai diễn của mình, sử dụng tên các nhân vật, tên hiệu có thể che dấu danh tính thật sự của họ, vì vậy đó là một nơi ẩn nấp lý tưởng cho những người khởi nghĩa.

Hồng Hoa hội
Lịch sử của môn ca kịch Quảng Đông nói rằng Hồng Thuyền hội quán được nhập vào Hồng Hoa hội vào những năm 1730 bởi một diễn viên đồng thời là một cao thủ Thiếu Lâm đến từ miền bắc tên là Chương Ngũ, có biệt danh Ngũ Tản Thủ. Nhưng vẫn còn chưa rõ ràng về việc võ công Vịnh Xuân được truyền thụ cho hay phát triển tại hội Hồng Thuyền như thế nào. Tuy vậy vào giữa thế kỷ 19 một số thành viên của hội được ghi nhận là Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Tỉ, Đại Hoa Diện Cẩm và Go Lo Chung.
Một số thông tin nữa về những diễn viên Hồng Thuyền được tìm thấy trong các tài liệu của dòng Bành Nam Vĩnh Xuân. Những tài liệu này xuất phát từ phả hệ họ Lok, với hai người trong số họ đã học Vịnh Xuân từ Đại Hoa Diện Cẩm. Tài liệu này cho rằng vào giữa thế kỉ 19 Yip Man-Sun (tướng nhà Thanh ở hai tỉnh Quảng Đông và Guangxi) được phái đến để đánh dẹp các hoạt động khởi nghĩa của Lee Man-Mao và Chan Hoi. Để làm điều đó, tướng Yip cho đóng cửa một loạt các rạp hát và đặt những diễn viên ra ngoài vòng pháp luật. Điều đó đã chấm dứt mọi hoạt động phản kháng triều đình một cách hiệu quả cho tới những năm 1860 khi Sun Wah và Kwon Din-Hing, cùng với Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Tỉ, Đại Hoa Diện Cẩm và những thành viên khác sáng lập ra Bát Hợp hội quán và mở lại các rạp hát.

Hoàng Hoa Bảo
Hoàng Hoa Bảo là người từ Gulao tỉnh Quảng Đông. Rất khoẻ và mạnh mẽ, Hoàng thường đóng các vai chính về võ thuật. Các vai diễn như Hầu Vương đòi hỏi một trình độ võ công cao và kiến thức về quyền thuật cũng như binh khí. Hoàng rất nổi tiếng với vai Quan Công và với côn pháp Lục Điểm Bán côn. Ông thường được coi là đại sư huynh của các diễn viên Hồng Thuyền và có huấn luyện cho họ. Khoảng giữa những năm 1870 Hoàng nghỉ hưu và quay về Phật Sơn. Ở đó ông có truyền thụ võ công cho một vị bộ đầu là Phổ Bá Quyền và một người đồng hương từ Gulao là Lương Tán - người có một tiệm thuốc tại đường Kuazi.

Đại Hoa Diện Cẩm Đại Hoa Diện Cẩm đôi khi còn được cho là San Kam hay Yik Kam trong nhiều dòng Vịnh Xuân. Ông là người rất nhanh nhẹn hoạt bát. Biệt hiệu của Kam bắt nguồn từ vai diễn Dai Fa Min, một vai đòi hỏi phải hoá trang rất nhiều. Ông bắt đầu dạy võ gần như cùng thời gian với Hoàng Hoa Bảo. Học trò của ông bao gồm Phổ Bá Quyền ở Phật Sơn và Phùng Tiểu Thanh, một bộ đầu sống ở gần Quảng Châu.

Lương Nhị Tỉ và Tall Chung
Lương Nhị Tỉ giúp Hoàng Hoa Bảo trong việc rèn luyện Lương Tán, người về sau trở nên nổi tiếng qua các truyện võ hiệp và phim ảnh. Go Lo Chung (Tall Chung) thì truyền lại cho con rể là Siu Li-Chung...

* Một số dòng võ từ Diệp Vấn, Nguyễn Kỳ Sơn ... lấy tên là Vịnh Xuân Quyền (bài ca mùa xuân), trong đó một số dòng khác như Bành Nam, Chí Thiện... lấy tên là Vĩnh Xuân Quyền (mùa xuân vĩnh cửu). Hai tên này song song tồn tại và cùng được sử dụng để chỉ môn võ công độc đáo của đoàn Hồng Thuyền.
lehavu
Đội hình 2
Đội hình 2
 
Posts: 225
Joined: Mon May 17, 2004 4:23 pm
Location: đắklắk
Blog: View Blog (2)
Top

Thiếu lâm ngũ hình quyền

Postby Phước Hưng on Fri Jul 16, 2004 5:36 pm

(Giới thiệu về Thiếu Lâm Ngũ Hinh Quyên : Long, Hổ, Xà,Hạc,Báo).
1. Long Hình Quyền
Con rồng Trung Hoa không tương quan với con rồng phun lửa Tây phương và loại khủng long thời tiền sử . Nó chỉ đích thực là sản phẩm của tinh thần tín ngưỡng và được nhắc tới trong các kinh sách nhà Phật như một linh vật có toàn năng ẩn hiện, biến hoá.
Theo kinh sách cổ, rồng sống ngoài biển cả và tuỳ theo ý muốn của nó, rồng sẽ hiện ra hoặc biến đi. Người Trung hoa thường cho rằng , rồng có sứ mạng phun nước làm mưa và những lúc thực hiện sứ mạng này, rồng sẽ hiện hình trong mây. Thân hình con rồng Trung hoa tương tự như thân hình loài rắn nhưng có vẩy phủ kín. Chân tay rồng giống loài rắn mối , phần cuối có móng sắc nhọn. Đầu rồng thì gần như đầu rắn.
Võ công Thiếu Lâm phát nguyên từ Phật giáo nên rồng trở thành một ứng viên hoàn hảo biểu thị những nét đặc sắc của Ngũ Hình Quyền. Do mang tên của con vật thần bí này, Thiếu Lâm Long Hình Quyền đã vượt quá thế giới của các công phu rèn ngoại lực và xâm nhập vào thế giới tinh thần của các năng lực nội tại , nhưng dù biểu thị cho nội lực , rồng vẫn đóng góp hữu ích cho việc rèn ngoại lực.
Rồng vốn không có mặt trong thực tế nên nhiều kỹ thuật của rồng chỉ là biến dị những đặc trưng thuộc kỹ thuật của những con vật khác. Chẳng hạn , động tác Long Hình Quyền thường mềm mại và uốn vòng tương tự cử động của loài rắn, dù không hoàn toàn giống.
Tuy nhiên, không hề có sự lẫn lộn giữa Long Hình Quyền và Xà Hình Quyền trong võ công Thiếu lâm. Dù cả hai giống loài rắn mối , nhưng rắn không có chân còn vuốt rồng tạo thành một yếu tố quan trọng trong cách thế chiến đấu của rồng.
Trong khi xà hình quyền gồm nhiều động tác mềm mại uốn khúc và tấn công bằng đầu ngón tay thì Long Hình Quyền được biểu hiện bởi các động tác mềm mại xoay vòng và kết thúc bằng một đòn cương mãnh đột ngột. Rắn chỉ vận dụng riêng nhu lực còn rồng vận dụng một sức mạnh phối hợp cả cương lẫn nhu.
Do con rồng có móng vuốt, gọi là trảo, nên Long Hình Quyền có một kỹ thuật trảo thủ đôi khi có thể lẫn với cách sử dụng móng vuốt của hổ. Tuy nhiên vẫn có thể phân biệt Long trảo và Hổ trảo qua các đặc trưng là Long trảo chủ về vồ chụp còn Hổ trảo chủ về cào xé. Kỹ thuật Long trảo không đánh từ trên xuống để xé toạc đối thủ mà mềm mại hơn , nhắm trước hết tới việc khoá hoặc lôi giựt.
Kỹ thuật tay căn bản biểu hiện Long Hình Quyền là Long trảo . Nhưng không hẳn mọi động tác trong Long Hình Quyền đều thuộc về trảo , mà vẫn có những đòn tấn công bằng ức bàn tay và nắm tay tức chưởng và quyền. Long trảo chỉ là kỹ thuật thường được sử dụng nhất. Đặc điểm nổi bật của kỹ thuật Long trảo là giữ trảo thủ ở vị trí ngang bằng trù bị thuận lợi cho việc vồ chụp một bộ phận nào đó trên người đối thủ như tay, tai …
Long Hình Quyền nổi tiếng với nhiều trảo thủ khác biệt như :
- Thần long triển trảo : trảo thủ nghiêng về một bên , di động qua lại theo đường chân trời , luôn nhắm vào sườn đối thủ , sử dụng vùng thắt lưng để phát lực.
- Kim long thí trảo : Dùng cả hai tay tạo thành một thế khoá kép , lấy cùi chỏ áp chế cánh tay đối thủ và có thể bẻ gãy, nếu cần.
- Thần long nhập hải : khởi đầu như một thế chộp bằng cả hai trảo thủ rồi dồn hết sức nặng lôi cho đối thủ mất thăng bằng và đả bại.
Mặc dù Trảo thủ thường được sử dụng nhiều nhất trong Long Hình Quyền nhưng các đòn đánh bằng quyền và chưởng vẫn được lưu ý tới. Sau đây là một số thế quyền trong Long Hình Quyền .
- Ô long bãi vĩ : tương tự một trái đấm ngược xoay vòng , sử dụng vùng thất lưng như một động tác quật đuôi để phát lực.
- Thanh long xuất hải : là một trái đấm xoay tròn . một tay lôi đối thủ về trước khi trái đấm công tới
- Kim long vọng nhật : đấm móc ngược lên từ phía trước với một tay phong toả trên đầu
Kỹ thuật tấn công bằng chưởng trong Long Hình Quyền gần giống Xà Hình Quyền , ngoại trừ điểm khác biệt là Long Hình Quyền dùng trảo công trong khi Xà Hình Quyền dùng chỉ công.
Long trảo công là phép luyện Long trảo bao gồm các bài chủ tập tăng cường sức mạnh riêng cho bàn tay và cánh tay. Võ sinh luyện môn này nắm chặt những bình đất nặng và đưa lên từ từ. Lúc đầu những chiếc bình để rỗng , nhưng sức nặng sẽ được tăng dần bằng cách đổ thêm nước cho tới khi đầy tràn. Tiếp đó nước sẽ được thay bằng cát rồi bằng đá với các thể khối và sức nặng lớn hơn.
Sự góp phần căn bản của Long Hình Quyền cho việc rèn tập Thiếu Lâm Ngũ Hình Quyền là việc luyện tập để triển khí. Khí được triển khai đúng lúc . Khí có thể phối hợp với ngoại lực để đưa tới những tác dụng đáng kể . Chẳng hạn như tự thân Long trảo vẫn có ngoại lực lớn nhưng luôn bị hạn chế bởi thể lực. Khi đưa khí vào Trảo thủ của mình , một võ sinh Ngũ Hình Quyền sẽ phát ra một lực mạnh gấp bội lần ngoại lực thông thường của Trảo thủ.
Trong Long Hình Quyền , nhiều phương pháp triển khí có thể được ứng dụng. Một phương pháp quan trọng là hít thở đúng phép. Hít thở phải thư giãn, dùng phần dưới của cơ thể để hút hơi hơn là chỉ dùng riêng cho vùng ngực. Hơi thở không thể căng thẳng gấp gáp mà phải mềm mại , nhẹ nhàng . Khi thở đúng, hơi thở sẽ giúp chuyển khí về đan điền là vùng tập trung các nguồn nội lực của cơ thể. Thở đúng còn khiến thân thể mềm dẻo , nhẹ nhàng hơn do tình trạng chu lưu đều khắp của khí.
Kỹ thuật thở theo Long Hình Quyền ứng dụng trong chiến đấu là một loại hơi thở gắt và nhẹ, phần nào liên quan tới nguyên tắc Nhu tải Cương. Hơi thở đều , nhẹ tạm nghỉ cho tới khi tung đòn thì bật mạnh ra, phối hợp với sức đánh.
Trong luyện tập Long Hình Quyền , Võ sinh phải giữ mềm mại, khoan thai để triển khí tựa như đang tập Thái Cực Quyền. Hấp tấp , căng thẳng quá, khí sẽ không lưu chuyển . Ngoại lực cương mãnh chỉ phát ra khi có một va chạm. Trong trường hợp ngược lại, võ sinh phải tập trung vào việc triển khí để tạo một nội lực cần thiết đủ đối phó với mọi điều có thể tới. Võ sinh còn phải rập khuôn và biểu hiện những đặc tính của rồng. Chẳng hạn, rồng có thể ẩn hiện, dù võ thuật không thể giúp người ta biến hình , võ sinh vẫn phải thể hiện đặc tính này bằng cách gây loạn tinh thần đối thủ khiến cho đối thủ ngỡ mình tấn công ở phía này trong khi mình lại bất ngờ tấn công từ phía kia. Rồng lại có khả năng biến hoá nên võ sinh có thể dùng cả thân mình làm võ khí để trở thành lớn hơn hoặc chỉ sử dụng riêng mấy đầu ngón tay để tấn kích vào một điểm nhỏ trên ngưòi đối thủ. Rồng vốn có tíếng là di động được từ đáy biển tới không trung nên Long Hình Quyền đã dạy cho võ sinh cả hai kỹ thuật là Xuyên (vân) và Nhập (hải).
Một phần tinh thần của rồng là ý. Tinh thần của việc triển khí là thần. Võ sinh Ngũ Hình Quyền có thể dồn khí ra mắt để tạo ra thần hoặc ý. thường , chỉ một cái nhìn cũng đủ khiến đối thủ phải khiếp hãi. Tuy nhiên không phải bất kỳ ai cũng hiển nổi thần vì điều kiện bắt buộc của việc này là một cơ thể cường tráng và một khí lực toàn triển.
Tóm lại, Long Hình Quyền đem cho con người một cỗ xe mà bước lên đó người ta sẽ thấy đích tới là sự phối hợp nội năng với ngoại lực để sản sinh một sức mạnh vô cùng đáng sợ.
Phước Hưng
Thành viên
 
Posts: 7
Joined: Fri Jul 16, 2004 5:31 pm
Location: Buồn Muôn Thuở
Blog: View Blog (0)
Top

Thiếu lâm ngũ hình quyền (tt)

Postby Phước Hưng on Sat Jul 17, 2004 1:34 pm

Thiếu lâm ngũ hình quyền (tt)
2. Hổ Hình Quyền
Cổ ngữ Trung Hoa nói rằng : “Một trái núi không dành cho hai con cọp” . Lời nói xuất phát từ ý nghĩ cho là loài cọp thường tự hào tới mức luôn đặt mình và vị thế độc bá một vùng . Vì tại Trung Hoa không có sư tử nên cọp chính là chúa sơn lâm. Cũng do đó, Hổ Hình Quyền đã có mặt trong Thiếu Lâm Ngũ Hình Quyền.
Khi ngắm hoạt động của loài cọp, các nhà sư Thiếu Lâm đã tìm thấy được sức mạnh , sự dũng cảm và uy lực của chúng và đi tới kết luận đây là con vật có giá trị vô biên với tư cách một mẫu mực để noi theo rèn luyện võ thuật. Ngũ Hình Quyền phản chiếu ảnh hưởng đậm đà hành vi của loài cọp. So với 4 loại quyền kia. Hổ Hình Quyền khác biệt hẳn ở điểm chủ tạo một thể cốt mạnh mẽ. Cọp là con vật mau lẹ và quyết liệt. Động tác tấn công của cọp là động tác ép tới giống như đang bị xô bởi một cỗ xe. Sức cọp là một loại ngoại lực cương mãnh hung bạo.
Hổ Hình Quyền không chỉ nhằm phát triển uy lực mà còn nhằm biến đổi tình trạng gân , xương để tăng phần kiên mãnh cho cổ và sống lưng. Cổ và sống lưng phải đạt tới mức bền, dẻo , có khả năng căng ra đủ để phát nổi một ngoại lực cương mãnh. Bởi uy lực của nhiều loại công phu do các thế tấn vững và cử động mạnh của thắt lưng tạo ra., nên người luyện võ phải có một sống lưng toàn kiện. Hổ Hình Quyền triển khai ý tưởng đó.
Kỹ thuật căn bản trong Hổ Hình Quyền là Hổ trảo. Hổ trảo hình thành bằng cách quặp các ngón tay theo dáng của móng cọp. Đây là một đòn tấn công thăng, ngắn để kéo, bẻ , xé hoặc ép tới. Đích nhắm của Hổ trảo là mặt, cổ , háng, cánh tay hoặc cổ tay. Khi va chạm, ức bàn tay áp mạnh để giúp các ngón tay bấu chắc hơn, rồi bẻ quặt hoặc lôi thẳng xuống.
Hổ trảo khác Long trảo ở điểm Long trảo là một kỹ thuật bắt, khoá còn Hổ trảo là một cử động ép hoặc xé bất chợt . Dù hầu hết kỹ thuật Hổ Hình Quyền xoay quanh Hổ trảo nhưng cũng có một số thể sử dụng nắm tay , trong đó có thế Lão hổ đái đầu dùng nắm tay xiết chặt phỏng theo cách tấn công bằng đầu của cọp. Nhưng nổi bật và đậm đà màu sắc vẫn là các thể đánh bằng trảo thủ như Mãnh hổ hồi đầu , Ngạ hổ khiêu dương, đặc biệt là Lão hổ tiển đầu. Ứng dụng kỹ thuật sau này có nhiều cách khác nhau. Hoặc biến một tay thành Hổ trảo chụp lấy cổ tay đối thủ trong khi tay kia dùng quyền đánh thẳng xuống. Hoặc một tay chụp ngược cổ tay rồi bẻ cánh tay đối thủ, trong lúc tay kia nắm lại áp mạnh xuống một điểm phía sau và trên cùi chỏ đối phương. Đây là một thế khoá kép tạo ra đau đớn dữ dội. Thiếu lâm Hổ Hình Quyền cũng sử dụng chưởng , chẳng hạn như kỹ thuật Mãnh hổ thôi sơn, một tay biến thành Hổ trảo chộp nắm tay tấn công của đối thủ đồng thời ức bàn tay kia đánh vào sườn đối thủ.
Nhiều kỹ thuật đá đặc biệt cũng được biểu hiện trong Hổ Hình Quyền . Trong đó một kỹ thuật dã trở nên quen thuộc với tên gọi Hổ vĩ thoái hoặc Hổ vĩ cước. Khi thực hiện kỹ thuật đá này phải giữ cho thân hình song song với mặt đất , hai tay dang về phía trước. Điểm cần chú ý là khi sử dụng Hổ trảo thì không phải các ngón tay mà chính toàn thể bàn tay mới thực sự quan trọng . Đây là chìa khoá triển khai ngón tay, ức bàn tay và cả chân nữa.
Để luyện Hổ trảo , người ta tung lên không những túi cát nặng , nhỏ rồi dùng ngón tay bắt lại . Các túi cát này cũng được dùng khi luyện các thế vồ chụp của Hổ trảo nhưng với tốc độ cực nhanh.
Về việc tăng cường sức mạnh của các ngón tay và cánh tay thì phương pháơ tương tự như phương pháp luyện Long trảo công. Trước đây để biến đổi và và tăng sức cho ngón tay, bàn tay và cánh tay luyện Hổ trảo, các võ sinh vồ chụp và bấu cành cây. Ngày nay, cành cây được thay thế bằng trái banh cao su.
Vì bàn tay được vận dụng để tạo hiệu năng cho Hổ trảo nên cánh tay và ngón tay được phát triển qua cách thực tập đẩy bằng ngón tay. Việc hoàn thiện lưng và cổ được thực hiện với một phương pháp đẩy đặc biệt nhằm tạo lực cho cả cánh tay, lưng và chân. Phưong pháp ấy đòi hỏi kéo toàn thân về phía trước cho tới khi ngực gần như sát đất thì vận dụng các cơ bắp trên lưng đảo ngược cử động lôi toàn thân về phía sau. So với các phương pháp đẩy thông thường chỉ lên và xuống thẳng thì phương pháp này cử động giống như cuốn về phía trước rồi cuốn về phía sau. Hổ Hình Quyền cũng có nhiều kỹ thuật thở để phát triển sức mạnh và uy lực. Khi thở phải phát hiện ra những tiếng động với số lượng được quy định rõ theo thời khắc. Hơi thở có tiếng động laàmột nét đặc biệt quan trọng vì nó tạo ra sức bền bằng cách thúc ép tống xuất hết thán khi để thay bằng dưỡng khí cần thiết cho sự phát lực. Bật ra hơi thở có tiếng động còn là cách giữ vững tinh thần ở độ cao , một yếu tố quan trong khi sử dụng mạnh mẽ và chớp nhoáng. Cho nên, võ sinh bao giờ cũng bật thở và phát ra một tiếng “oác” khi tung một đòn hổ trảo. Không có phần nào trong Hổ hình quyền đề cập tới tinh thần. Khi thực hiện Hổ Hình Quyền , chỉ cần chiếc cổ căng thẳng và nét mặt giận giữ. Võ sinh phải cảm và nghĩ như mình là một con cọp hoang vừa rời núi. Đây là lúc tinh thần của con cọp hoang biểu hiện để tăng thêm uy lực phi thường cho mọi cuộc chiến đấu. Tinh thần tự hào của loaàicọp vuơn lên cũng khiến tiêu giảm nhược điểm trước bất kỳ đối thủ nào.
Phước Hưng
Thành viên
 
Posts: 7
Joined: Fri Jul 16, 2004 5:31 pm
Location: Buồn Muôn Thuở
Blog: View Blog (0)
Top

Next

Post a reply

Smilies
em22 em36 em26 em39 em29 em35 em31 em34 em32 :D :) ;) :( :o :shock: :? 8-) :lol: :x :P :oops: :cry: :evil: :twisted: :roll: :!: :?: :idea: :arrow: :| :mrgreen: :geek: :ugeek:
Quote Selected
 

Return to Võ thuật và võ nhân Bình Định

Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 1 guest