by doctor ZIVAGO » Wed Jan 11, 2012 8:23 am
C. Về mặt quản lý nhà nước:
1. Độc đoán, chuyên quyền:
Mặc dù bệnh viện có Ban Giám đốc với đầy đủ các thành phần, nhưng hầu hết mọi chuyện đều phải làm theo sự chỉ đạo của Giám đốc, bất chấp ý kiến của các bộ phận tham mưu.
BS Nguyễn Đồng (0913490224), một PGĐ lâu năm, phụ trách phòng Kế hoạch tổng hợp, bị xem là không cùng ekip làm việc, đã bị vô hiệu hóa một cách tuyệt đối. BS Đồng hiện tại chỉ còn được giao việc ký hồ sơ ra viện và giao ban ở khoa Ngoại Ung bướu, bị đẩy ra khỏi Hội đồng thuốc Bệnh viện, nói tóm lại là bị cô lập hoàn toàn.
Khoa Dược bệnh viện được đặt dưới quyền kiểm soát gắt gao, tất cả thuốc xuất nhập đều phải báo cáo với GĐ hàng ngày. Nhưng quản lý như thế không phải với mục đích phục vụ bệnh nhân, mà với mục đích trục lợi cá nhân. Bằng chứng là tất cả các thuốc thiết yếu trong điều trị đều được cung cấp nhỏ giọt, ngắt quảng. Các BS điều trị cứ phải thay đổi thuốc sau 2,3 ngày điều trị vì khoa Dược hết thuốc. Trong khi đó một số loại thuốc khác, đặc biệt là nhóm kháng sinh Cephalosporin thế hệ 2 (điển hình là Gomcefa), nguồn cung ứng hầu như là vô tận. Điều gì đằng sau đó, mong đoàn kiểm tra tìm hiểu thêm.
Cũng với mục đích kiểm soát và thao túng dễ dàng khoa Dược, cách đây gần 3 năm, một chiến dịch nhằm đánh đổ DS Lộc ( 0914030150, nguyên Trưởng khoa Dược) đã được tiến hành một cách rầm rộ. Với lý do là khoa Dược quản lý kém làm thất thoát thuốc men, trong một lần DS Lộc đi công tác ở TPHCM, một đoàn kiểm tra với đầy đủ thành phần đã tập trung kiểm tra kho, giấy tờ sổ sách, thậm chí còn niêm phong cả ổ cứng máy vi tính ở phòng làm việc của DS Lộc. Kết quả chỉ tìm thấy đâu khoảng chục viên thuốc quá hạn. Để có lý do hạ bệ DS Lộc, mọi buổi giao ban trong gần hai tháng sau đó, tất cả các Trưởng khoa phòng trong bệnh viện đều được gọi đứng lên báo cáo về tình hình thuốc men. Nếu có một thứ thuốc nào thiếu hoặc chậm cung cấp vì bất cứ lý do gì, DS Lộc cũng bị khiển trách, hay nói cho chính xác là bị sỉ nhục ngay trước giao ban. Sau một thời gian, DS Lộc phải viết đơn xin nghỉ. Ngay sau đó, TS Tỵ dự định đưa BS Trần Nam Việt Hưng (0989954299) lên làm Trưởng khoa Dược. May mắn thay, đề xuất này không được Sở Y tế đồng ý. Nếu không, Bình Định sẽ là tỉnh đầu tiên và duy nhất trên toàn quốc có Trưởng khoa dược là một BS CKII về chẩn đoán hình ảnh.
Phòng Tài chính Kế toán cũng là nơi được TS Tỵ quyết tâm đưa cho được người của mình vào để tiện bề kiểm soát. Để làm được việc này,cùng với cách thức tiến hành như trên, TS Tỵ cũng tung tin trưởng phòng Tài chính là cử nhân Nguyễn Thị Kim Trung (0914285028) làm thất thoát một số tiền lớn. Đoàn kiểm tra cũng được lập ra để rà soát lại toàn bộ sổ sách, nhưng cuối cùng kết quả chẳng có gì. Vậy là suốt trong một năm ròng rã, không hôm nào giao ban toàn viện, hoặc trong bất cứ dịp nào có thể được, Cử nhân Trung đều bị mạt sát bằng một thứ ngôn ngữ không ai nghĩ rằng có thể tồn tại được ở cơ quan nhà nước. Sau một năm, Cử nhân Trung đã làm đơn xin nghỉ việc, nhưng sau đó qua thương lượng đã nộp lại đơn xin chuyển bộ phận công tác khác. Dĩ nhiên, đơn xin chuyển công tác đã được chấp nhận tức khắc.
Các cuộc họp của muôn vàn những ban bệ được đặt ra dưới thời TS Tỵ diễn ra ở bất cứ thời khắc nào trong ngày. Khi được triệu tập, lập tức các thành phần phải có mặt ngay, thậm chí có hôm những cuộc họp bắt đầu vào 20, 21 giờ. Lý do những cuộc họp đó đôi lúc không có gì phải khẩn cấp đến nỗi phải tiến hành vào những giờ trái khoáy như thế cả: triển khai một biện pháp kiểm tra nhân lực, một cải tiến hành chính, hoặc họp kiểm điểm một vụ việc gì đó, chỉ đạo sửa hồ sơ…. Với kiểu họp hành như trên, giờ giấc nghỉ ngơi của người lao động bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Giờ giấc của những cuộc mổ chương trình lại càng lạ hơn nữa, bất cứ lúc nào TS Tỵ thấy thích mổ, thường bắt đầu vào khoảng 17 giờ và kéo dài cả đêm. Những loại bệnh lý mổ chương trình không có tính cấp bách về mặt thời gian để bắt buộc phải mổ về đêm như thế. Nếu gọi là bận quá không mổ được cũng không đúng, vì với số lượng bệnh mổ trong một đêm như thế rất dễ dàng phân ra để mổ rải rác trong tuần. Hậu quả kéo theo là toàn bộ nhân viên phục vụ ở phòng mổ chương trình Ngoại Thần kinh phải đảo lộn toàn bộ giờ làm việc, ban ngày nghỉ ở nhà chơi, tối được điều vào để phục vụ cho việc mổ xẻ của TS Tỵ cho đến gần sáng. Bệnh nhân phải nhịn đói trước mổ cả ngày chờ đến tối mới được đưa lên phòng mổ, đôi lúc đến phút cuối lại bị hoãn mổ vì những lý do vô cùng vớ vẫn. Cách mổ chương trình như thế này đúng là lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới.
Chưa có một đời Giám đốc nào ở bệnh viện mà số điều dưỡng, nhân viên phục vụ, bảo vệ bị đuổi việc nhiều như dưới đời TS Tỵ. Tất cả những nhân viên hợp đồng này nếu có xảy ra sai phạm là bị TS Tỵ ra quyết định cho nghỉ việc ngay hôm sau mà không cần thông qua hội đồng kỷ luật bệnh viện. Những sai phạm đó đôi khi chỉ là những sai sót rất nhỏ về mặt hành chính, chuyên môn… chưa gây ra một hậu quả gì cho bệnh nhân cũng như quy trình làm việc của bệnh viện. Thậm chí chỉ cần một cử chỉ hay lời nói không hợp ý với TS Tỵ cũng dẫn đến hậu quả bị đuổi việc.
Việc tách sinh hoạt chi bộ Ngoại Tổng quát (bí thư chi bộ là BS Văn Ngọc Ý), từ một chi bộ lớn thành ra ba chi bộ nhỏ hơn, cũng hoàn toàn do TS Tỵ tự động đánh quyết định đưa xuống. Trong khi đó theo điều lệ Đảng, việc này phải thông qua Đaị hội chi bộ và cấp ủy. Đây là hành động vi phạm trầm trọng đến quy tắc dân chủ trong Đảng, thể hiện sự độc đoán chuyên quyền rõ nét.
2. Bất hợp lý trong quản lý nhân sự:
Việc bố trí lại nhân sự dưới thời TS Tỵ không theo một cung cách quản lý đúng mực mà hầu như chỉ làm theo cảm tính, không vì sự phát triển lâu dài và bền vững của bệnh viện mà chỉ nhằm tạo một lực lượng phe cánh bao phủ khắp các khoa phòng. Với các Trưởng khoa lâu năm không nằm trong phe cánh, không có lý do để hạ bệ, TS Tỵ nghĩ ra cách chia nhỏ khoa với mục đích đưa tay chân vào vị trí lãnh đạo ở khoa mới và làm giảm bớt đi quyền lực của các trưởng khoa cũ. Xin đưa ra đây vài ví dụ cụ thể.
Khoa Ngoại Tổng quát trước đây do BS Văn Ngọc Ý làm trưởng khoa, nay được chia ra làm 3 khoa, với lý do để phát triển khoa phòng, thành ra Ngoại Tổng quát, Ngoại tiết niệu, Ngoại Ung bướu. Trong khi đó nhân lực thiếu, nên mặc dù tách ra làm ba khoa nhưng vẫn phải trực gác chung. Việc bố trí nhân lực ở khoa Ngoại Ung bướu cũng không hợp lý. Các BS đàn anh, có đầy đủ năng lực chuyên môn lẫn bằng cấp về chuyên khoa như BS Hiệp, BS Luận (0914092145) đều không được đưa vào vị trí lãnh đạo khoa. BS Công, một BS nội trú chuyên về ngoại Tổng quát lại bị điều chuyển về khoa Ung bướu. Sự việc trên làm nội bộ khoa lục đục kéo dài, ảnh hưởng nhiều đến công tác điều trị.
Khoa Nội Tim mạch, một khoa mới thành lập, cũng bị rơi vào tình trạng tương tự. BS Nguyễn Minh Toàn, được xem như một trong những người thân cận của TS Tỵ, là một người có nhân thân không tốt với một loạt đơn tố cáo về việc cưỡng ép nhân viên và người nhà bệnh nhân quan hệ tình dục, được đưa lên làm phó khoa phụ trách trong thời gian BS Lê Thành Ấn đi học. BS Toàn là một BS học ở ĐH Y khoa Huế theo dạng cử tuyển (là lớp được mở ra để đào tạo cho con em các huyện miền núi), trình độ chuyên môn cực kỳ hạn chế. Thế nhưng vì hiềm khích cá nhân, BS Toàn đã không chỉ định đúng về chuyên môn cho một số bệnh nhân có chỉ định đặt máy tạo nhịp (là thủ thuật BS Toàn không thực hiện được), vì ngại rằng BS Nam Hùng làm được thủ thuật này sẽ nâng được uy tín chuyên môn. Hậu quả dẫn đến có hai bệnh nhân được giải thích cho về, lên cơn rối loạn nhịp trở lại, tý nữa thì tử vong. Hiện hai người nhà này đã gởi đơn khiếu nại lên UBND Tỉnh.
BS Vân khoa bệnh Nhiệt đới, là một BS có bằng cấp chuyên khoa về lãnh vực này, lại được TS Tỵ điều hẳn sang làm ở khoa Chống Nhiễm khuẩn, một khoa đòi hỏi phải có kiến thức về Vi sinh.
BS Hương khoa Nhi, lại được điều chuyển làm Trưởng phòng hành chính, hoàn toàn không dính dáng gì đến chuyên môn đã được đào tạo.
BS Trần Thượng Dũng, một bác sỹ đa khoa cho đến giờ vẫn chưa được đào tạo sau đại học, từ khoa Khám bệnh được điều về làm Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp, là một phòng chức năng quan trọng trong bệnh viện về phương diện hồ sơ, pháp lý. Việc điều chuyển này nhằm mục đích đưa những người không được xem là phe cánh như BS Nguyễn Đồng, BS Dậu, BS Võ Bảo Dũng ra khỏi những vị trí nhạy cảm.
BS Tiến, một BS nội trú Nội vừa mới ra trường, hoàn toàn không có một kiến thức và kinh nghiệm gì trong điều trị nội khoa, được đưa lên làm Trưởng khoa Lão khoa, một khoa tách ra từ Nội Tổng quát.
Toàn bộ nhân lực của hai máy chụp MRI xã hội hóa (được xem như là 2 cỗ máy kiếm ra tiền ) đều là điều dưỡng của khoa Ngoại Thần kinh. Chỉ có một số ít trong đó được cử đi học ngắn ngày về kỹ thuật chụp, còn phần lớn được đào tạo tại chỗ theo kiểu cầm tay chỉ việc. Vì thế, các film MRI chụp tại bệnh viện Bình Định không chuẩn, không đủ các xung, gần như không giúp gì nhiều trong chẩn đoán.
Tất cả những việc điều chuyển nhân sự bất hợp lý như thế đã làm một số mâu thuẩn nảy sinh trong nội bộ gây mất đoàn kết, công tác chuyên môn không phối hợp một cách nhịp nhàng, quản lý chồng chéo phức tạp. Hậu quả là mặc dù có đầy đủ các ban bệ khoa phòng như thế, mọi việc từ chuyên môn cho đến quản lý vẫn thiếu hiệu quả do con người đặt không đúng vị trí, tất cả công việc lớn nhỏ đều phải chờ chỉ đạo cụ thể mới dám làm. Đó chính là mục đích cuối cùng của TS Tỵ, tạo ra một đội ngũ thừa hành tuyệt đối nhưng thiếu đi tính sáng tạo, hoặc là tính sáng tạo bị bẻ gãy, từ đó lại càng nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của cá nhân.
3. Sai phạm trong quản lý chuyên môn:
Những sai phạm trong chuyên môn về chuyên ngành Ngoại Thần kinh, chúng tôi đã phân tích cụ thể ở trên, mục này chỉ xin phân tích riêng về những sai phạm trầm trọng trong quản lý chuyên môn, thể hiện cụ thể nhất qua việc chỉ định các xét nghiệm bừa bãi và chỉnh sửa hồ sơ bệnh án một cách có hệ thống.
Ngay từ khi mới lên quản lý bệnh viện, dựa vào chủ trương xã hội hóa công tác khám chữa bệnh của Đảng và Nhà nước, TS Tỵ đã cho lập đề án mua sắm một loạt các trang thiết bị khám chữa bệnh để kêu gọi góp vốn đầu tư. Thoạt nhìn, đây là một việc làm rất tốt vì phục vụ cho lợi ích của bệnh nhân. Nhưng thật ra nguồn vốn này tập trung vào việc mua sắm hàng loạt các máy móc chẩn đoán, là lãnh vực dễ thu hồi vốn và có nguồn lợi nhuận cao.Về vấn đề thu nhập từ nguồn xã hội hóa, chính đây là động lực thúc đẩy cho việc ra đời những chỉ thị, quy định nhố nhăng về tỷ lệ giữa tiền thuốc và tiền cận lâm sàng (tiền xét nghiệm máu, nước tiểu, siêu âm, chụp Xquang, CT, MRI ). Nhưng nguy hiểm hơn, việc này lại xuất phát từ một lý do che đậy bên ngoài mà thoạt nhìn qua thấy rất tốt. Số là có một chỉ số so sánh về tỷ lệ chi phí giữa tiền thuốc và cận lâm sàng, nếu chỉ số này có độ chênh lệch % cao nghiêng về cận lâm sàng, điều đó chứng tỏ bệnh nhân được chẩn đoán tốt trước khi điều trị, và bệnh nhân được điều trị đúng thuốc đúng bệnh chứ không lạm dụng thuốc. Từ đó sẽ cho ta rút ra được một kết luận là bệnh viện nào áp dụng được việc kiểm tra khắt khe tỷ lệ này sẽ là bệnh viện chăm lo tốt cho sức khỏe nhân dân, bác sĩ nào phản đối việc này là bác sĩ có quyền lợi riêng dính dáng tới các hãng thuốc về chuyện hoa hồng. Đây là chổ lắc léo rất hay mà chính các thanh tra của Bộ Y tế về cũng bị che mắt. Thật sự là không phải đưa tỷ lệ đó lên bằng cách giảm tiền thuốc xuống, mà bằng cách nâng cận lâm sàng lên. Ví dụ tổng thu trung bình của các năm trước là 30 tỷ với 20 tỷ tiền thuốc, 10 cận lâm sàng, tỷ lệ là 66,6%/ 33,33%. Chỉ tiêu theo chỉ thị mới không phải là năm nay phải đạt 15:15 đâu. Chỉ tiêu là thuốc vẫn cứ như thế hoặc hơn, cận lâm sàng phải tăng lên theo, tức là 20:20, tổng thu phải là 40 tỷ. Có một sự biến tướng rất tinh vi ở đây, núp sau một lý do bề ngoài rất tốt đẹp. Chính vì thế mà các bệnh nhân BHYT của Bình Định chúng ta rất phấn khởi vì vào khám chữa bệnh rất được ưu ái, cho làm rất nhiều xét nghiệm chẩn đoán rất đắt tiền (dĩ nhiên bằng máy móc xã hội hóa). Trong khi đó, các máy móc chẩn đoán được mua bằng tiền ngân sách thì hoặc là không hoạt động, hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Bằng chứng kèm theo cho thấy là trong cùng một thời điểm, thu nhập của bệnh viên từ nguồn máy móc Xã hội hóa cao gấp 10 lần so với máy móc ngân sách. Đây chính là thủ đoạn lợi dụng uy tín của cơ quan nhà nước để trục lợi cá nhân. Các phụ lục kèm theo cho thấy thu nhập cá nhân hàng tháng của TS Tỵ dựa vào nguồn xã hội hóa lớn như thế nào. Hàng ngày trong giao ban, các khoa phòng đều phải báo cáo tỷ lệ giữa tiền thuốc và xét nghiệm để điều chỉnh cho đúng chỉ tiêu.
Một việc được chỉ đạo làm một cách nhất quán và có hệ thống là chỉnh sửa lại toàn bộ hồ sơ bệnh án để đói phó với Bảo hiểm Y tế cũng như là các đoàn thanh tra của Bộ. Theo quy chế Hồ sơ bệnh án do Bộ Y tế ban hành, tất cả các hồ sơ khi đã nhập kho lưu trử đều không được chỉnh sửa với bất cứ lý do gì, vì đó chính là bằng chứng pháp lý. Thế nhưng TS Tỵ đã cho đem toàn bộ hồ sơ chỉnh sửa lại để đối phó với kiểm tra, núp dưới lý do là mượn hồ sơ để nghiên cứu khoa học. Điều này đoàn có thể kiểm chứng lại qua các Trưởng khoa.
Các khoa phòng khác, TS Tỵ cho tách ra với lý do để phát triển mạnh lên, nhưng với khoa Ngoại Thần kinh, sự việc lại diễn tiến theo hướng ngược lại. Các đơn nguyên điều trị trực thuộc khoa được mở rộng một cách tùy tiện, lúc cao điểm lên đến 11 phòng. Bệnh lý tai biến mạch máu não, một loại bệnh lý chủ yếu là điều trị nội khoa, cũng được thành lập một đơn nguyên tại đây. Để điều trị loại bệnh lý này, đòi hỏi phải có một kiến thức Nội khoa căn bản chứ không chỉ đơn giản chỉ theo dõi có chỉ định mổ hay không. Thế nhưng với mục đích để triển khai liệu pháp điều trị Oxy cao áp (lại một loại thiết bị xã hội hóa nữa, mua bằng nguồn vốn của nhân viên Ngoại Thần kinh), TS Tỵ vẫn ra quyết định thành lập đơn vị điều trị đột quỵ tại khoa Ngoại Thần kinh. Kết quả là bệnh nhân không được điều trị một cách toàn diện và đến nơi đến chốn các bệnh lý nội khoa kèm theo, chất lượng điều trị tại đơn nguyên này vô cùng kém.
Một việc làm đáng nói hơn nữa, ở các bệnh nhân có chỉ định truyền máu toàn phần trong mổ hoặc sau mổ, TS Tỵ cũng chỉ thị cho truyền làm hai lần. Huyết tương và Hồng cầu khối là hai thành phần của máu được tách ra để truyền cho những bệnh nhân có những chỉ định cụ thể nhằm tiết kiệm được lượng máu dùng cũng như nâng cao tính an toàn. Thế nhưng khi có chỉ định truyền máu toàn phần thì không ai lại cho chỉ định tách máu tươi làm hai thành phần rồi lần lượt truyền lại như thế. Việc này nhằm mục đích tăng thêm thu nhập của máy xã hội hóa, hoàn toàn vô ý nghĩa về mặt chuyên môn, chưa kể đến những nguy hiểm mà bệnh nhân phải gánh chịu thêm.
4. Nhập nhằng trong quản lý tài chính:
Đây là một trong những vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải có một cuộc thanh tra về tài chính hoặc điều tra của công an kinh tế. Trong chừng mực nhìn nhận ở góc độ là một thành viên trong cơ quan, chúng tôi chỉ đưa ra một số hiện tượng và nhận định mang tính cách cá nhân mà thôi.
Hệ thống quản lý tài chính, nhìn qua thì sẽ thấy rất chặt chẽ, vì ngoài kế toán riêng cho từng bộ phận, còn có một đội ngũ kế toán tổng hợp. Đặc biệt hơn nữa, còn có cả một bộ phận kế toán riêng nhận chỉ đạo trực tiếp từ giám đốc. Trong các buổi giao ban toàn viện, bộ phận này có nhiệm vụ đối chiếu lại tất cả các báo cáo tài chính từ kế toán toàn viện, tìm ra các khoản chênh lệch và lý giải nguyên nhân. Quản lý việc thu và cân bằng sổ sách thì chặt chẻ đến như vậy, nhưng việc chi thì chẳng mấy ai hay. Từ trước, hàng tháng luôn luôn có một bản công khai tài chính giao xuống cho các khoa phòng, trong đó kê khai cụ thể các khoản thu chi và các khoản quỹ còn tồn. Nhưng thời gian vừa qua không còn thấy bản công khai tài chính nữa. Hàng tháng, tổng thu từ các khoản như thế nào, phân bố quỹ ra sao, thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước đến đâu…, tất cả đều là bí mật với người lao động.
Việc quản lý nguồn vốn xã hội hóa cũng có những khuất tất khó hiểu. Hoàn toàn không có hội nghị cổ đông hàng năm. Số vốn ban đầu được sử dụng như thế nào, giá trị thặng dư được sử dụng tiếp theo như thế nào, giá trị của mỗi cổ phần hiện tại đã tăng bao nhiêu, đó là những câu hỏi không nhận được lời giải đáp. Nghiêm trọng hơn, trong việc mua máy MRI lần thứ hai, mặc dù được thông báo nhưng không một nhân viên nào được góp vốn mua máy cả. Khi máy MRI mua lần hai được đưa vào sử dụng, có chỉ thị miệng từ TS Tỵ cho nhân viên phòng MRI phải ghi tên những trường hợp chụp ở máy MRI 1 sang máy MRI 2, thu chi ở máy MRI 2 này hoàn toàn không được công khai. Chúng tôi tha thiết đề nghị đoàn thanh tra cho kiểm tra lại danh sách góp vốn ở máy MRI 2 này cũng như các vấn đề tài chính liên quan đến nó.
Nguồn tiền thu được từ các giường điều trị theo yêu cầu của khoa Ngoại Thần kinh cũng được sử dụng một cách rất khó hiểu ( vấn đề thành lập các phòng điều trị theo yêu cầu ở Ngoại Thận kinh chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau), không công khai. Đột nhiên trong vòng nửa năm toàn thể nhân viên trong khoa không nhận được tiền từ các phòng điều trị theo yêu cầu, khi hỏi thì nhận được câu trả lời sẽ dùng tiền đó vào trong việc mua máy đo điện não xã hội hóa đặt tại khoa. Như vậy là ngay tại khoa Ngoại Thần kinh đã tồn tại đến 3 nguồn thu xã hội hóa: máy đo điện não, hệ thống Oxy cao áp, hệ thống giường theo yêu cầu.
Tất cả những chuyến đi vào Nam ra Bắc của TS Tỵ đều lấy chi phí từ nguồn quỹ đào tạo và quỹ nghiên cứu khoa học, một việc làm phi lý. Những chuyến đi công tác giảng dạy như thế hoàn toàn là việc cá nhân, cơ sở mời giảng dạy phải có trách nhiệm thanh toán chứ không phải bệnh viện. Ngoài ra còn có những chuyến công tác với mức độ dày đặc một cách bất thường, chúng tôi thiết nghĩ không nằm trong nhiệm vụ công tác của một Giám đốc cơ sở điều trị. Trong khi đó nhân viên dưới quyền mỗi lần có giấy mời tham dự các Hội nghị khoa học chuyên ngành đều phải tự bỏ tiền ra đi để cập nhật kiến thức.
5. Sai phạm an toàn trong sử dụng cơ sở hạ tầng:
Đây là một vấn đề mà bất cứ một người dân bình thường nào khi đặt chân vào bệnh viện trong thời gian vừa qua cũng thấy ngay. Tất cả các khoảng đất trống đều được che chắn cơi nới một cách tùy tiện, tạo thành một cảnh quan nhếch nhác.
Hệ thống máy móc xã hội hóa được đưa vào một khu riêng biệt, nằm bên cạnh khoa khám, vốn là một dãy nhà cấp 4 trước kia dùng làm canteen, nay được cải tạo lại. Với công năng là nhà ăn, các tường chắn không được thiết kế cho việc che chắn các tia phóng xạ từ máy X quang, hệ thống nước thải không được xử lý trước khi đi vào hệ thống nước thải chung, hệ thống điện cũng không đảm bảo cho việc hoạt động của các máy móc y tế.
Canteen được đưa xuống phía dưới, nằm ngay cạnh và bao xung quanh một trạm biến áp lớn, vi phạm trầm trọng hành lang an toàn điện.
Với hệ thống nhà cửa được cơi nới cải tạo tạm bợ, các tiện nghi tối thiểu để phục vụ cho sinh hoạt thiếu thốn trầm trọng, TS Tỵ vẫn quyết định biến nơi đấy thành các đơn nguyên điều trị theo yêu cầu. Đơn nguyên Ngoại Thần kinh 5 nguyên là khu nhà trọ, 6 là khoa Ngoại chấn thương cũ để không nay cải tạo lại, 7 và 8 là dãy nhà cấp 4 được xây nối thêm với 5,6. Ngoại Thần kinh 10 là Ngoại A cũ, Ngoại Thần kinh 11 là dãy nhà cấp 4 xây sát vào khoa Chống Nhiễm khuẩn. Tất cả các nơi nói trên đều có một đặc điểm chung là chỉ có duy nhất một nhà vệ sinh cho bệnh nhân và người nhà cả phòng, quạt máy, mái tole. Ngoại trừ 7,8, các phòng còn lại đều là phòng điều trị theo yêu cầu với giá tiền giường tối thiểu là 75.000/ngày. Để tận thu, TS Tỵ còn cho xây nối vào khoảng thông khí và đường thoát hiểm sau Ngoại Thần kinh 3 và 6 thành ra Ngoại Thần kinh 1, là nơi điều trị bệnh nhân nặng của khoa. Điều kiện ở Ngoại Thần kinh 1 quá sức tồi tệ, không phải chỉ cho người bệnh mà cho cả người nuôi bệnh. Không có khoa phòng nào trong bệnh viện mà số giường điều trị theo yêu cầu lại nhiều gấp nhiều lần với giường điều trị thường như thế.
Hệ thống khoa phòng của bệnh viện được xây dựng theo hệ thống bán tập trung, với các dãy nhà nằm riêng biệt cách nhau bằng các khoảng trống thông khí, liên kết với nhau bằng hệ thống hành lang. Trong quy định xây dựng và sử dụng các công trình công cộng, đặc biệt là các công trình có lượng người tập trung với mật độ lớn như bệnh viện, các khoảng trống thông khí và các đường thoát hiểm đặc biệt được chú trọng. Thế nhưng chỉ để đáp ứng nhu cầu trước mắt, phớt lờ đi các quy định an toàn đó, TS Tỵ đã cho cơi nới hàng loạt khoa phòng ở vị trí các hành lang, hoặc ở các khoảng trống thông khí. Trong điều kiện sử dụng hàng ngày, không khí không được luân chuyển đã gây một cảm giác rất ngột ngạt không chỉ với bệnh nhân mà ngay cả nhân viên phục vụ, hoàn toàn không hợp vệ sinh. Khi có hỏa hoạn xảy ra, với hệ thống khép kín, không có các lối thoát hiểm như thế, chúng tôi thật sự không dám hình dung ra hậu quả thiệt hại về người và của.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét (PQ)