TRẬN ĐẤU TỚI
|
|
20/05/2007 Chi Lăng
Đà Nẵng - P.Bình Định |
|
|
CHÂN DUNG CẦU THỦ
|
|
Bóng đá Bình Định kể từ sau thời của cựu vua phá lưới Công Long không có nhiều tiền đạo...
|
|
|
|
|
 |
|
 |
Câu ca dao này như một lời ngợi ca, niềm tự hào của dân tộc về một địa danh oai hùng, cái nôi của làng võ Việt Nam, vùng đất nổi tiếng bao đời, đã sản sinh nhiều bậc anh tài có công truyền bá di sản quý báu võ học Tây Sơn mà dân tộc Việt Nam đã tự hào trong quá trình chống giặc ngoại xâm giữ gìn đất nước
Võ Bình Định được xuất phát từ đất Tây Sơn, quê hương anh hùng Nguyễn Huệ. Từ xưa, luyện võ không chỉ để rèn luyện thân thể, mà còn mang một ý nghĩa thiêng liêng là bảo vệ và xây dựng tổ quốc, luyện võ còn trao đổi về nhân cách và đạo đức.
Ngày nay, tuy võ thuật không còn dùng để xông pha trận mạc nhưng nó giúp chúng ta có sức khoẻ để học tập, lao động, phục vụ đất nước.
Những ai may mắn được kế thừa võ công của các tiền bối cũng đều mong muốn những tinh hoa võ thuật này được tiếp tục giữ gìn một cách trân trọng và cách hay nhất vẫn là truyền thụ lại cho các thế hệ mai sau
Võ Bình Định gồm nhiều môn phái. MỗI môn phái có nhiều đặc điểm khác nhau. Phần nhiều được truyền trong gia tộc và trong từng vùng, từng huyện, từng thôn
Nói đến quyền, ngườI ta nhớ ngay đến quyền An Vinh vớI gia đình ông Hương mục Ngạc và con trai là Bảy Lụt, con gái là Tám Cảng
Nhắc đến roi thì lạI nghĩ ngay đến ngọn roi thần tốc của Bầu Đê, Hương Lễ Nghè và Hồ Ngạnh
Nói đến ăn cướp có nghĩa khí như nhóm Lương Sơn Bạc bên Tàu thì ai cũng nhớ đến chú Lía ở Truông Mây
…
Trường dạy võ tuy không được tổ chức quy mô rộng lớn chứa hàng trăm môn sinh, song khung cảnh một thầy vớI vài môn đệ rất thích hợp vớI võ Bình Định. Có thể các đồ đệ ngày đi cày bừa, đốn củI, gánh phân làm cỏ ruộng, tốI đến thầy trò luyện võ dướI ánh trăng thanh hay dướI ánh sáng của bó đuốc hùng cháy, hoặc cây đèn chai khêu lớn ngọn… Có khi luyện tập theo thờI vụ: ngưng nghĩ để thu hoạch lúa rồI sau vụ mùa lạI tiếp tục học. Có lúc mỗI tháng chỉ tập vài buổI khi trăng sáng. Nhiều làng cả nam lẫn nữ đến tụ hộI tạI sân đình làng cùng nhau luyện võ. Tuy nhiên đây chỉ là phong trào sớm phai tàn. Chỉ riêng những ngườI có nghị lực vớI lòng ham muốn võ nghệ mớI đủ kiên nhẫn luyện tập cho đến khi thành tài.
1/ Luyện tập thân thể:
a- Tập xách tạ: Cốt yếu để tăng thể lực và đây là môn căn bản trong các kỳ thi võ, ngườI học võ phảI luyện tập hàng ngày bằng cách xách một vật nặng (đá hoặc sắt) có một trọng lượng tốI thiểu là 36kg (6 yến tạ), mỗI ngày có thể trọng lượng mỗI tăng thêm. LốI xách tạ khác vớI lốI nâng tạ vì khi xách tạ thì sức nặng dồn ở cánh tay và đôi chân. Cho nên xách nặng đã khó mà còn phảI di chuyển càng xa càng tốt. NgườI cử tạ chỉ cần nâng được vật nặng lên khỏI đầu, trọng lượng sẽ đè lên toàn thân dồn xuống đôi chân bất động, nâng được lên khỏI đầu là có thể ném vật nặng xuống.
Trong các cuộc võ hương thí, môn thi xách tạ buộc thí sinh phảI xách, nếu 1 tay thì quả tạ nặng 72kg, hai tay thì mỗI tay 36kg và phải đi được một khoảng đường dài 32m (8 trượng) cho một tay và 64m (16 trượng) cho hai tay. Qua được môn này mớI được thi các môn khác. BởI vậy nên các võ sinh lúc nào cũng lo tập xách tạ để làm căn bản
b- Tập đu: Mục đích luyện cho đôi tay được cứng rắn và dẻo dai. LốI tập này giống như tập thể dục hiện nay về môn tập xà ngang, xà dọc, xà kép… Dụng cụ luyện tập đơn sơ bằng cành ổI, cành tre… để tập đu, tập nâng mình…
c- Luyện chân tay: Tập cho chân tay được mạnh, dẻo dai và lanh lẹ. NgườI võ sinh tập sao cho di chuyển được lẹ làng vững chắc, tay vung ra có lực, nắm đấm gọn mạnh… Khi luyện chân tay thì võ sinh chưa cần phảI theo đúng cách tập các thế võ bài võ. Chỉ khi nào tay chân di chuyển tớI, lui, đánh ra, thu vào gọn gàng, có lực thì võ sinh mớI được tập võ thuật. Trong thờI gian luyện tập này, nhiều võ sư đã cho môn sinh đá, đấm vào vật mềm như bao bông. Bao trấu (võ lúa) hoặc thân cây chuối. Cao hơn thì đấm đá vào vật cứng hơn như bao gạo, bao lúa, bao cát… Võ sinh sẽ quen dần và tay chân cứng rắn có thể đá, đánh vỡ gạch ngói, gỗ mỏng…
Võ sinh sẽ học cách chém bằng lườm tay, đấm bằng lưng các ngón tay nắm chặt, đánh bằng lòng bàn tay (chưởng) hoặc lưng bàn tay. Các ngón tay cũng luyện tập thật cứng rắn. Khi thành công có thể đâm thủng ván mỏng, thủng cơ thể con người.
d- Tập nhảy: Để luyện đôi chân và để dễ dàng nhảy cao cũng như nhảy dài
LốI tập đơn giản nhất là tập nhảy từ dướI hố lên. Ban đầu hố cạn, sau sâu dần. Lúc mớI tập thì nhảy không, khi thiện nghệ rồI thì đổ cát vào hai ống quần, cột lạI rồI tập nhảy. Khi thành công thì có thể nhún một cái là nhảy lên cao, khỏI phảI lấy đà, lấy trớn. Võ sinh cũng tập nhảy leo thang, nghĩa là nhảy lên cao rồI nương theo đà nhảy, dùng chân đạp vào một điểm tựa để rồI tiếp tục nhảy lên cao một khoảng nữa. LốI tập này rất công phu và ít ngườI thành công.
2/ Tập võ thuật:
a- Tập quyền thuật: Sau khi võ sinh đã luyện tập thân thể mạnh khoẻ, chân tay cứng rắn lẹ làng, gân cốt dẻo dai… thì bắt đầu đi dần vào luyện võ thuật
Tập chân thì có “đứng tấn” và “di chuyển”. Nguyên tắc của đứng tấn là dồn trọng lực xuống đôi chân, bàn chân gắn chặt vớI mặt đất, khí lực dồn vào đan điền. Di chuyển thường gọI là bộ ngựa, có nhiều cách di chuyển tuỳ theo mỗI môn phái thích hợp vớI môn võ của mình
Tập tay thì tập các thế đánh và đỡ. Các cử động phảI nhuần nhuyễn và phản xạ linh động, võ sinh tập tất cả các thế đánh, khi nào thì dùng nắm đấm, khi nào thì dùng lườn bàn tay, ngón tay, cách đánh cùi chỏ, cách đỡ gạt…
Sau khi nhuần nhuyễn, võ sinh sẽ được dạy cách kết hợp chân và tay. Khi ấy, võ sinh mớI học các bài quyền căn bản như “Ngọc Trãn quyền”, “Lão Mai quyền”… Võ sinh phảI học thuộc lòng các bài thiệu của thầy dạy rồI bắt đầu học từng thế võ trong bài.
b- Các môn vũ khí:
Thiết lĩnh: gồm hai thanh gỗ cứng rắn, một dài một ngắn, dài gọI là mẹ, ngắn gọI là con. Hai thanh mẹ con được nốI vớI nhau bằng một sợI dây mảnh và chắc, thường được dùng đuôi ngựa hoặc tóc kết lại. TạI hai đầu nốI có một vòng khuyên bằng sắt. Thiết lĩnh đánh rất mạnh và gọn, xoay trở lẹ làng, thích hợp cho lốI đánh cận chiến, chật hẹp…
Bút chì: là vũ khí có cán và đầu bịt sắt. CuốI cán bút chì có buộc một sợI dây mảnh và chắc. Khi giao đấu, đầu sợI dây buộc chặt vào cổ tay để sau khi phóng ra có thể thu hồI về lại. NgườI lão luyện có thể trong chớp mắt phóng ra thu về.
Bút sắt: là một ngọn giáo hoặc ngọn mác, đầu bọc thép, thân bằng gỗ, tre gai hoặc cây đặt ruột rất cứng, có độ uốn và bật rất khoẻ. Khi giao chiến thì sử dụng thay ngọn giáo. Lúc bất ngờ, ngườI sử dụng uốn cong cây giáo rồI lựa chiều thả bung ra lao vào kẻ địch. Sức bật cong vớI đà lao khiến đốI thủ khó mà né tránh.
Song xỉ: là món vũ khí dùng cho hai tay vừa đỡ gạt vừa tấn công. Song xỉ gồm một đôi thanh sắt dài hơn cánh tay ngoài của ngườI sử dụng. Thân thanh song xỉ ôm tròn lấy cánh tay. Hai đầu là hai mũi nhọn. Phía trước có đai sắt để cầm. Phía sau có dây da quấn vào bắp tay gần cùi chỏ. Thân song xỉ che cánh tay giống như một tấm khiên nhỏ. Hai mũi nhọn hai đầu như hai lưỡI dao găm. Đây là món vũ khí phốI hợp vớI thế đánh của lăn khiên và đao ngắn, dùng để đánh cận chiến.
Khiên: là một tấm đan bằng gỗ hoặc tre mây, tẩm dầu chai cho bền chắc, dùng cho việc che chắn khi giao chiến
Cung ná: là vũ khí dùng để tấn công từ xa. Cung thủ phần nhiều phảI có sức mạnh, mắt tinh và nhanh tay. Ban đầu tập bắn mục tiêu cố định, sau bắn mục tiêu di động. ThờI Tây Sơn có bốn nhân vật nổI danh về bắn cung là Nguyễn Quang Huy, La Xuân Kiều, Lý Văn Bưu và Đặng Xuân Phong.
Roi: là loạI vũ khí bằng gỗ, tre, mây… dài ngắn tuỳ theo loại
|
|
|
 |
TT
|
Đội
|
T
|
Đ
|
1
|
Bình Dương |
12
|
27 |
2
|
P.Bình Định |
12 |
19 |
3
|
Đà Nẵng |
12 |
19 |
4
|
H.Thanh Hoá |
12 |
18 |
5
|
ĐT.LA |
12 |
18 |
6
|
HA.GL |
12 |
17 |
7
|
ĐPM.NĐ |
12 |
16 |
8
|
K.Khánh Hoà |
11 |
15 |
9
|
TMN.CSG |
12 |
15 |
10
|
HN.ACB |
12 |
15 |
11
|
TCDK. SLNA |
12 |
12 |
12
|
HP.HN |
12 |
11 |
13
|
Huda Huế |
12 |
11 |
14
|
Đồng Tháp |
11 |
8 |
|
 |
 |
1
|
Almeida (ĐN) |
8 bàn |
2
|
Amaobi (BD) |
8 bàn |
3
|
C.Vinh (SLNA) |
6 bàn |
4
|
Elenildo (CSG) |
6 bàn |
5
|
Trọng Lộc (NĐ) |
5 bàn |
|
 |
|
|