Last visit was: Thu May 17, 2007 1:19 pm It is currently Thu May 17, 2007 1:19 pm

All times are UTC




 [ 6 posts ] 
Author Message
 Post subject: BÌNH ĐỊNH - MỘT VÙNG ĐẤT VÕ
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:33 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
LỜI THƯA:
0:18', 23/10/ 2006 (GMT+7)
Trần Thị Huyền Trang

Giữa lòng Việt Nam có một vùng đất mang tên Bình Định. Từ trong thế núi hình sông, dường như trời đất hữu tình muốn dành cho Bình Định một dấu ấn riêng, nên sắp bày thiên nhiên vô cùng ngoạn mục: Từ đỉnh đèo An Khê nhìn xuống, núi tiếp núi trong một trận đồ hùng vĩ, dòng sông Kôn dựng bao ghềnh thác thượng nguồn, bồi đắp vỗ về bao làng mạc trước khi hòa vào biển cả. Sông và núi vững bền mang trong nó bao trầm tích lịch sử và văn hóa: Bình Định đất thơ, đất tuồng, đất võ. Không thể nói rõ rằng màu áo đỏ Tây Sơn hay gương mặt cô gái Bình Định bí ẩn chập chờn sau đường roi xé gió đã trở thành lời mời gọi lạ lùng, quấn quýt bao trái tim người.

Về với những làng xóm hiền hòa để đọc lại trong từng vầng trán, từng ánh mắt, từng dáng đi của người Bình Định chất võ lắng sâu, chúng tôi may mắn tiếp nhận sự truyền thuật của các võ sư tiền bối mà tên tuổi được giới võ học đương thời nhắc đến với niềm ngưỡng vọng như Lê Thành Phiên, Hà Trọng Sơn, Lâm Ngọc Phú, Phan Thọ, Hồ Sừng, Hàm Hữu Nghĩa, Phi Long Vịnh, Lý Xuân Hỷ, Trần Dần... cùng sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của các võ sư Hồ Cương, Phan Sơn, Phan Đức, Huỳnh Ngọc Sương và các thế hệ võ sinh đã và đang được đào tạo từ hai dòng võ Thuận Truyền, An Vinh huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định. Cuối năm 2005, lão võ sư Lê Thành Phiên từ giã cõi đời ở tuổi 89 và đầu năm 2006, võ sư Hồ Cương cũng qua đời vì trọng bệnh. Sự ra đi của họ dù là quy luật tự nhiên, vẫn khiến chúng tôi ý thức rõ thêm về sự “chạy đua” với thời gian để lưu giữ những giá trị một đi không trở lại. Còn rất nhiều làng võ và chân dung võ sư Bình Định ẩn sau tre trúc. Những người hữu tâm với võ Bình Định hẳn đều cảm nhận lời giục giã âm thầm và khẩn thiết ấy.

May mà đã kịp ghi lại chút gì về họ, trong không gian của các làng võ, những gương mặt, những giọng kể, những đường quyền... Đối với tôi, các cuộc gặp gỡ, giao lưu này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với thành công của đề tài mà còn mang ý nghĩa tri âm hạnh ngộ.

Bước đầu tìm hiểu về võ cổ truyền, mà trọng tâm là các làng võ nổi tiếng ở Tây Sơn, một vùng đất được coi là tiêu điểm của đất võ Bình Định, tôi xin đặc biệt bày tỏ lời tri ân đến Ông NGUYỄN AN PHA - Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ Bình Định, Cố võ sư LÊ THÀNH PHIÊN, võ sư PHAN THỌ, võ sư HỒ SỪNG - những người đã dành nhiều tâm huyết hướng dẫn và thẩm định chuyên môn cho loạt bài viết này.

Hy vọng đây là bậc thềm đầu tiên để tiếp cận với kho tàng võ lâm Bình Định thấm đẫm chất bi hùng và lấp lánh màu huyền thoại.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject:
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:35 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
Hành trình nguồn cội

1- Đôi nét về nguồn gốc của võ Bình Định

Bình Định xưa thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm Thành đây là châu Thi-bị. Học giả G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt chữ Cri –Vi(Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV. Năm 1470, vua Chiêm Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Nam nước ta là châu Hoá, vua Lê Thánh Tông phải đích thân cầm binh đánh dẹp. Sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông, vùng đất Vijaya sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt năm 1471 với tên gọi là phủ Hoài Nhân thuộc đạo Quảng Nam, bao gồm các huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1605, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Quy Nhơn. Vào năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành Hoàng Đế trên nền cũ của thành Đồ Bàn, lấy phủ Quy Nhơn làm kinh đô của triều Tây Sơn. Năm 1799 Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định. Năm 1802 triều Nguyễn (Gia Long) đổi thành làm dinh, đến 1808 đổi dinh làm trấn. Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh - gọi là tỉnh Bình Định.

Như vậy, Bình Định từng kinh qua vai trò của kinh đô của vương quốc Chiêm rồi mới trở thành vùng biên viễn Đại Việt. Sau khi người Chiêm dời vào Nam, ở đây vẫn còn các sắc dân bản địa: Bana, Chăm H’roi, H’re. Theo sự điều động của triều đình nhà Lê, một số võ quan và các cánh quân được triều đình cắt cử đến đây trấn nhậm, đương nhiên phải là những đơn vị được huấn luyện võ bị kỹ càng. Bình Định trở thành nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân mới bao gồm dân nghèo từ miền ngoài, chủ yếu là Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư; những dòng họ người Việt hoặc người Hoa rời nơi chôn nhau cắt rốn đến đây lập làng tổng mới; những phạm nhân lãnh án lưu đày. Và đây cũng là nơi những người phiêu tán giang hồ chọn làm đất dừng chân. Họ không chỉ mang theo hành lý, của cải, mà còn mang theo cả những ký ức sâu thẳm trong hội hè đình đám, trong lời ca tiếng hát, trong cách đối nhân xử thế, trong miếng võ phòng thân.

Với đặc điểm lịch sử, địa lý và dân cư như vậy, đời sống của người Bình Định xưa đã diễn ra trong sự nâng đỡ đầy hào phóng và cả sự thử thách lớn lao của Đất Mới. Suốt một thời kỳ dài trong lịch sử, Bình Định là đất phên giậu, là chốn biên thùy phía Nam của Tổ quốc, một miền đất đầu sóng ngọn gió với vô vàn thử thách, hoang vu và bất trắc. Hiện thực ấy buộc những lớp cư dân Việt đầu tiên của Bình Định phải căng mình ra để tồn tại, hơn thế nữa, để xác lập tư thế chủ nhân, không chỉ là người chủ của số phận mình, mà còn là người chủ đất nước. Trong công cuộc khẩn hoang đối mặt với thiên nhiên và dã thú hay trong những cuộc chạm trán giữa các lực lượng đối kháng, giữa người lương thiện và kẻ cướp, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, võ đã hình thành. Tích hợp từ nhiều nguồn, võ Bình Định đã xác lập qua hàng trăm năm chọn lọc, lưu truyền, chảy trong dòng chảy của lịch sử và trở thành một trong những hệ giá trị đặc trưng cho vùng đất.

2- Một số võ nhân nổi tiếng vinh danh võ cổ truyền Bình Định qua các thời kỳ:

Một nền võ học được xác lập không chỉ bằng hệ thống lý thuyết và các bộ môn, các chiêu thức thực hành, mà phải nói đến các võ nhân mà tên tuổi đã vượt khỏi đường viền của một tiểu vùng văn hoá, được giới võ học trong nước biết đến như những đại diện của võ cổ truyền Bình Định.

Tương ứng với các thời kỳ lịch sử là các giai đoạn phát triển của võ Bình Định. Chúng tôi tạm chia: Thời kỳ trước Tây Sơn, thời kỳ Tây Sơn, thời kỳ nhà Nguyễn, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ sau 1975 đến nay.

2.1- Thời kỳ trước Tây Sơn:

Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi danh võ nghiệp có Khám lý quận công Trần Đức Hoà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương Đức Thường... Họ không chỉ giỏi võ, mà còn là các danh nhân rường cột của một thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ông là người tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.

Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ.

Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên.

- Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng.

Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng.

Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao.

Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn) …

Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh.

Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm.

2.2- Thời kỳ Tây Sơn:

Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư.

- Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc.

- Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính…

- Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung.

Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn.

Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam.

2.3- Thời kỳ nhà Nguyễn:

Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ:

Củ lang Đồng Phó,
Đỗ phộng Hà Nhung,
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi


Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian.

Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương...

Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân.

2.4- Thời kỳ cận – hiện đại:

Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia.

Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh, Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái.

Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,...

Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau.

Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject:
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:40 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ góc độ văn hóa

1- Võ cổ truyền là một loại hình văn hóa phi vật thể

Bình Định là một vùng đất võ, đó là điều đã được thừa nhận rộng rãi. Nhưng võ là một cái gì đó vô hình. Thấy roi, xích, cung, tên, gươm, đao, giáo, mác, bảo đấy là võ ư? Không phải, đấy chỉ là binh khí, vũ khí, tức là khí cụ của võ. Nó là một số tín hiệu, phương tiện của nghề võ dưới dạng vật thể. Võ tồn tại trong những con người bằng xương bằng thịt. Vô thể biến thành hữu thể, khi con người vào cuộc, lâm thế, phải đối đầu, phải xuất chiêu, phải đánh trả hoặc tập luyện, truyền dạy. Vậy khi con người không diễn võ thì võ mất ư? Không phải, võ vẫn tồn tại trong tâm trí, nội lực của họ, có điều kiện là bộc lộ. Nói võ là văn hóa phi vật thể, chính là do tính chất tiềm ẩn, vô hình, biến ảo này vậy.

Võ Bình Định khởi đầu là những phản xạ phòng thân, được chọn lọc, đúc kết thành đường nét, phép tắc, bài bản, trở thành một hệ thống giá trị được áp dụng, học tập, nghiên cứu. Trong hành trang văn hóa dân gian Bình Định, dấu ấn "miền đất võ" được thể hiện khá đậm nét, từ văn học đến hội lễ, từ âm nhạc đến vũ đạo, được vận dụng khá nhuần nhuyễn cho một loại hình nghệ thuật đặc sắc của Bình Định là hát bội.

2- Võ cổ truyền trong sự giao thoa với các loại hình văn hóa khác

2.1- Võ cổ truyền Bình Định với văn học dân gian

Dưới thời phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ ăn sâu vào nếp nghĩ, vậy mà con gái Bình Định cũng được học võ, luyện võ:

Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.


Không chỉ học cho biết, mà còn giỏi võ, có tiếng tăm:

Trai An Thái, gái An Vinh

Người Bình Định xưa ít nói đến trăng khi thề thốt, ít nói đến hoa khi hò hẹn yêu đương. Cái mà người Bình Định xưa thường vận đến như một vật chứng thiêng liêng là lưỡi gươm vàng.

Hãy nghe một người nói với một người:
Em thương anh trầu hết lá lươn
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nhì đày hai lẽ mà thôi.
Gươm vàng để đó anh ơi
Chết thì chịu chết lìa đôi không lìa.


Hãy nghe một người vợ nói với chồng:
Chàng ơi đưa gói thiếp mang
Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không.
Lại nghe một người dặn dò một người:
Anh ơi giữ dạ cho bền
Mai sau sắt vụn rèn nên gươm vàng.


Hình ảnh lưỡi gươm vàng vừa khẳng định một tư thế tồn tại quyết liệt vừa giàu chất xả thân. Ở những nơi quá phẳng lặng, chưa từng đối mặt với gian nguy tột bậc, chưa gặp tình huống phải lấy mạng sống để đảm bảo, thì người ta không nhắc tới gươm giáo một cách đau đáu, tin cậy, đầy sự tín chấp như vậy. Điều ấy không thể giải thích đơn thuần vì lý do thẩm mỹ, mà phải đi từ đặc điểm hoàn cảnh, đặc điểm lịch sử. Trong đó, con người phải trả lời các thử thách quyết liệt bằng nhân cách, bằng sinh mệnh.

Trong quá trình xác lập tư thế lịch sử, khí phách và tài năng tuyệt vời của các võ nhân Bình Định đã thổi vào văn học dân gian một luồng gió bất tận của huyền thoại. Hãy còn đó những truyền thuyết đẹp như ngọc: chuyện Nguyễn Nhạc được sơn thần ban ấn kiếm, chuyện Nguyễn Huệ bắt đàn ngựa trời để thu phục lòng tin của đồng bào Sêđăng, chuyện Võ Văn Dũng chém sư hổ mang, chuyện Bùi Thị Xuân đả hổ, chuyện Nguyễn Văn Tuyết trộm ngựa chúa Nguyễn tại dinh Tuần phủ… Những câu chuyện dân gian ấy là sự bảo tồn đầy trân trọng của nhân dân đối với những anh hùng đích thực mà họ tôn thờ. Trừ những kẻ bị Lía trừng trị, còn tuyệt đại đa số nhân dân trìu mến gọi Lía là Chàng Lía, Chú Lía. Khi Lía sa cơ, phải trốn trong rừng thẳm, được một lão tiều phu nhường cho nắm cơm. Ăn xong, Lía dặn ông lão mang đầu mình nộp quan lĩnh thưởng rồi tự chặt đầu đền ơn. Hành động của Lía quá nhanh, lão tiều không kịp cản. Lão tiều vừa khóc vừa ráp đầu Lía vào thân, chôn dưới một gốc cây. Nước mắt của ông lão phải chăng là nước mắt của dân Bình Định dành cho Lía? – bởi bất kỳ một người dân Bình Định nào cũng sẽ làm như ông lão – thà sống nghèo khổ chứ không làm việc bất nghĩa. Cuộc đời Lía được kể lại trong Vè chàng Lía, như một bản anh hùng ca dân dã, đó là tình yêu của Bình Định dành cho một người con ruột thịt của mình.

Không phải ngẫu nhiên mà người Bình Định dành cho những võ nhân như chàng Lía, như Mai Xuân Thưởng những lời vọng tưởng đầy yêu quý. Về Chàng Lía:

Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành


Về Mai Xuân Thưởng:
Ngó vô Linh Đổng mây mờ
Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây
Hầm Hô cữ nước còn đầy
Còn gương phấn dũng còn ngày vinh quang.


Bằng lối đi riêng của mình, văn học dân gian đã dẫn dắt lịch sử trở về, bất chấp sự bôi xóa, đốt phá của các thế lực đen tối nhằm trả thù, hay sự rơi rụng vô tình trong quá trình sàng lọc của thời gian. Không gian lịch sử mà văn học dân gian tái hiện là cả một bầu trời rộng rãi, khoáng đạt, ở đó, nổi bật chân dung các võ nhân Bình Định anh hùng, mà nhân cách và hành trạng thấm đẫm lòng yêu nước của họ chính là sự đảm bảo cho giá trị của võ Bình Định trở thành thiêng liêng.

2.2 - Võ thuật và hát bội Bình Định:

Với những cơ duyên lịch sử và địa lý, tỉnh Bình Định từ xưa đến nay có quyền tự hào chính đáng là mảnh đất của anh hùng và nghệ sĩ. Ở đây, bao thế hệ kiên cường giữ đất và giữ trong tim mình ngọn lửa nồng nàn tình yêu nghệ thuật. Trên nền tảng của văn hóa dân gian - võ nghệ - thi ca, hát bội đã ra đời và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Bình Định. Không phải ngẫu nhiên mà những tích tuồng hát bội như Sơn hậu, Hộ sanh đàn, Tam hạ Nam Đường, Cổ thành hội… diễn lại hàng trăm lần vẫn làm say lòng khán giả. Đó là những tích tuồng ngợi ca trung hiếu, thủy chung, tiết nghĩa. Mới hay người xưa không chỉ đến với hát bội như đến với những loại hình nghệ thuật mang tính giải trí đơn thuần, mà thực chất đó là hành trình tìm về những giá trị vĩnh hằng của đạo lý dân tộc. Và người nghệ sĩ trên lĩnh vực sân khấu truyền thống mang sứ mệnh thiêng liêng là thể hiện khát vọng mãnh liệt của quần chúng nhân dân, đồng thời truyền đạt những bài học triết lý nhân sinh sâu sắc của ông cha cho lớp lớp con cháu hậu sinh. Có thể nói đây là nơi hội tụ và chia sẻ giữa nghìn xưa với nghìn sau, giữa cá nhân nghệ sĩ với cộng đồng xã hội, vượt qua mọi cách bức về thời gian, không gian. Và bằng con đường ấy, dù đi qua bao thăng trầm của lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc vẫn được bảo tồn, vun đắp.

Nói hát bội là loại hình kịch hát thì chưa đủ, mà phải nói đó là kịch hát - múa. Múa trong hát bội mô phỏng động tác của người và động vật trong đời sống thực. Các động tác này quan hệ mật thiết với làn điệu và văn học tuồng hát, nên nó phải được tiết tấu hoá, khoa trương, cách điệu.

Múa trong hát bội Bình Định có quan hệ mật thiết với võ cổ truyền Bình Định. Các động tác múa không có đạo cụ trong hát bội như khai, khán, chỉ, khoát, giằng cương ngựa, lên ngựa, phi ngựa, lăn, ngã, đá, xóc, nhảy thành… được chắc lọc từ các tư thế, động tác võ thuật, từ các bài quyền. Múa có đạo cụ như cung, kiếm, thương, siêu, đao, khiên, búa, chùy… nhất thiết phải học qua các bài võ có binh khí thì mới có nền tảng để cách điệu, trau chuốt các động tác cho phù hợp, đảm bảo vừa đúng vừa đẹp, vừa khoa học vừa thẩm mỹ. Người sắm vai Ông Đỏ (Quan Công) phải biết đánh đại đao mới có thể múa Thanh Long đao sao cho hùng, uy nhất quán. Người sắm vai Tiết Cương chuyên đánh độc phủ (búa đơn), mà thế chống búa trong bài độc phủ thì phải đứng một chân, còn chân kia co lại đưa lên cao, lòng bàn chân ngửa. Thế đứng này đẹp nhưng khó, nếu diễn viên không hiểu biết võ thuật thì không thể lập bộ vững vàng, huống chi trong khi đứng, còn phải diễn và hát. Kép sắm vai Triệu Khánh Sanh, Cao Quân Bảo đòi hỏi nhuần nhuyễn cách khai thương, khán thương, khoát thương, chỉ thương, khấu thương; trong khai thương lại phải biết khai vớt, khai chao, khai loan; hay như khi nhân vật chỉ cầm thương chứ không giao tranh cũng phải biết cách cầm thương dắt ngựa, gò ngựa; cầm thương lên ngựa sao cho chặt chẽ, không bị rối mới tạo dáng đẹp, cầm không nên hồn thì thương đi đường thương, ngựa đi đường ngựa, hỏng cả tầm vóc nhân vật lẫn vở diễn. Các vai đào chiến như Đào Tam Xuân, Lưu Kim Đính, Kỷ Lan Anh múa song kiếm phải thành thạo từ cách khai kiếm, chuốt kiếm, dựng kiếm, bồng kiếm, khấu kiếm- động tác múa phải tròn, kín, nếu là song kiếm thì phải biết lúc nào nên tách, lúc nào nên nhập. Chính vì mối quan hệ giữa võ và múa mật thiết như vậy nên Hậu tổ Hát bội Việt Nam Đào Tấn từng dạy học trò: “Kép hát phải biết võ nghệ mới được.”

Những nguyên tắc mà vũ điệu hát bội phải tuân thủ như cân đối, âm dương, gốc ngọn, mực thước, nhịp nhàng, thật ra rất gần với các thảo võ cơ bản của võ cổ truyền Bình Định, bắt đầu từ bài dễ như quyền Ngũ hành, roi Thất bộ đến những bài tiêu biểu như quyền Ngọc Trản và roi Thái Sơn. Diễn viên hát bội học múa đều được dạy hai thảo võ cơ bản này.

Các nhân vật được thể hiện trên sân khấu hát bội như Quan Công, Trương Phi, Hoàng Phi Hổ, Triệu Khánh Sanh, Tiết Cương v.v… tuy “bước ra” từ các tích tuồng lịch sử Trung Quốc, nhưng các tác gia hát bội Việt Nam đã phổ vào đó hồn vía Việt. Qua sự nhập vai của các diễn viên tài danh trên sân khấu hát bội Bình Định, cốt cách, tinh thần và võ thuật Bình Định đã hòa quyện và làm nên sức sống lâu bền của vai diễn, lớp diễn, vở diễn. Tiết Cương chống búa, Diễn võ đình, Lão Tạ lăn lửa, Đào Tam Xuân loạn trào … là những lớp diễn tuyệt vời, trong đó võ thuật Bình Định đã nhập vào vũ điệu hát bội để thăng hoa và trở thành bất diệt.

2.3 - Võ cổ truyền với lễ hội

Nếu nhìn từ góc độ văn hóa, thì võ thuật Bình Định là một dạng thức văn hóa đặc biệt có sự tương tác mạnh mẽ với các dạng thức văn hóa khác. Trong sinh hoạt hội hè đình đám của người Bình Định xưa, các cuộc mang tính cộng đồng rộng lớn thường không thể thiếu hai món hát xướng và võ thuật.

Nói đến những lễ hội tràn đầy tinh thần thượng võ trên đất Bình Định, người ta nghĩ ngay đến lễ hội Tây Sơn. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 5 tháng giêng âm lịch. Thực ra, phần lễ với các nghi thức dâng hương, tưởng niệm được bắt đầu tổ chức từ ngày mồng 4 tại Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt để tưởng nhớ các thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là ba anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ. Sang ngày mồng 5, phần chính hội bắt đầu với nghi thức kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa (năm 1789), tái hiện trận Đống Đa oanh liệt của nghĩa quân Tây Sơn áo đỏ dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Quang Trung đánh thắng 29 vạn quân Thanh xâm lược. Ngày xưa, hội đánh trận giả được tiến hành vào lúc mờ sáng. Tiếng trống trận, tiếng ngựa hí quân reo huyên náo, bóng cờ bay phần phật lúc mờ lúc tỏ, hoàng đế Quang Trung (do một người đóng vai) lẫm liệt đưa kiếm lệnh cất lời hiệu triệu vang rền. Cả một dòng lịch sử cuồn cuộn trở về:

Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh
Chiến tượng hai trăm tinh tường trận mạc.
Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc hải hoàn sau
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên đán trước.
Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong;
Dốc dạ truy tùy, non bằng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến
ba quân liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng,
quyết một trận chẳng hơn thì thác.
Thế giặc dẫn binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành,
chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt,
Rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức cuồn cuộn thác,
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ, sông máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất.
Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Đống Đa!
Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hải thoát thân mạn Bắc.
Ngoài ải sói gió tan mùi sát khí, niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên;
Vào thành Long cờ rợp bóng vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.
Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.

(Văn tế Đống Đa của nhân dân Bình Khê)

Khí thế rầm rập, làm dậy lên niềm tự hào thiêng liêng. Người xem hội đổ về từ chiều hôm trước. Già trẻ trai gái chen nhau qua cầu, nhiều người bị lấn rớt xuống sông, bị lấm ướt sây sát mà vẫn hăng hái vui say. Sau phần đánh trận giả, lễ hội còn có nhiều hoạt động văn hóa dân gian thấm đẫm tinh thần thượng võ: hội thề kết nghĩa Kinh Thượng, hội cồng chiêng, các chương trình biểu diễn võ nhạc và võ thuật: trống trận Tây Sơn, đánh côn, đi quyền, đấu võ...

Những năm gần đây, lễ hội Tây Sơn được tổ chức quy mô, hoành tráng, trang trọng tại Bảo tàng Quang Trung và sân vận động huyện Tây Sơn. Cầu mới đã xây, người đi hội đông gấp bội nhưng cảnh chen nhau rớt xuống sông không còn nữa. Phần Hội cũng không còn cảnh đánh trận lúc mờ sáng, mà được tổ chức dưới hình thức sân khấu hóa rực rỡ với sự tham gia của hàng trăm thanh niên, học sinh, diễn viên, võ sĩ. Chương trình hội phong phú hơn xưa: về hội thi có thi Trạng Nguyên, cờ tướng, cờ người, đua thuyền; về văn nghệ có hát bội, hát hò đối đáp, thả đèn hoa đăng trên sông v.v. Đặc biệt, trống trận Tây Sơn 12 chiếc và các tiết mục biểu diễn võ thuật đã trở thành hồn vía lễ hội: đánh côn, đi quyền, biểu diễn các môn binh khí cổ truyền, đấu võ đài… vẫn là những hình thức văn hóa có sức thu hút và lôi cuốn cao nhất, tạo nên sự cộng hưởng mãnh liệt trong lòng người dự hội.

Bình Định còn có một lễ hội đặc sắc tràn đầy tinh thần thượng võ ở An Thái là lễ hội đổ giàn. Nhà thơ Chế Lan Viên, thời niên thiếu sống ở thành Bình Định, trong những dòng hồi niệm về con đường đến với văn chương, đã tâm sự: “Chả lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt nhà lá mái cửa bàn khoa Bình Định hay cái vòng quay kiên trì triền miên của các xe nước ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ? Nhưng quả là những đêm hát bội ở An Vinh, các cuộc đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất hùng tráng - sau này ta gọi là sử thi hay là gì nhỉ? Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò đổ giàn, đó chả là Olympic của ta đấy sao? Một cái giàn cao hàng chục mét, có con heo quay trên ấy và dưới đất là hàng chục võ sĩ từ Quy Nhơn, Đập Đá lên, Bình Khê xuống, Hoài Ân Hoài Nhơn vào, cùng với các võ sĩ An Thái, An Vinh tại chỗ đang chờ đợi. Khi con heo ném xuống là một cuộc “tỉ thí lôi đài” dữ dội để giành cho được con heo kia, dấu hiệu đoàn nào sẽ là vô địch năm này. Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu, cái dây hồng trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc đổ giàn thượng võ này? Blake đã nói khá đúng: “Văn hoá đi bằng lối thẳng, còn nghệ thuật thì đi các lối ngoằn ngoèo”. (Chế Lan Viên- Thơ văn chọn lọc, Sở VHTT Nghĩa Bình 1988).

Lễ đổ giàn với những nghi thức dân gian sinh động như rước nước, tắm tượng, đập động trừ yêu, phóng sinh, chẩn bần, xô cỗ đổ giàn, cướp heo quay, hát án... quả thật là sự hội tụ tưng bừng của nhiều màu sắc, nhiều vẻ đẹp văn hoá hữu thể và vô thể, nhưng sức cuốn hút chính của nó là ở sự tỷ thí võ nghệ một cách sôi động, hết mình. Không chỉ riêng Chế Lan Viên. Những người từng chứng kiến lễ hội đổ giàn đầu thế kỷ XX đều kể lại với niềm phấn khích xen lẫn tự hào vô bờ bến. Ông Hồ Diêu, gọi hương mục Ngạc bằng ông, hiện còn sống ở An Vinh, thuật những điều mắt thấy tai nghe : “Võ sĩ của các võ đường đổ về An Thái quan sát địa hình suốt mấy ngày trời, rồi ém quân mai phục từ đêm hôm trước. Một số trà trộn trong đám đông đứng xem hội, chờ lễ tế vừa xong, đã thoăn thoắt lên giàn, các võ sĩ canh giàn cản không nổi. Con heo quay trên cỗ xô xuống còn lơ lửng trong không trung đã có người phi thân lên chụp rồi vác chạy. Chụp được đã khó, vác được heo ra khỏi vòng vây còn khó hơn. Vì con heo quay là chiến lợi phẩm danh dự nên các phái võ ra sức tranh giành. Có người giành thì có người cướp. Có người cướp thì phải có người chận cướp mở đường cho phe mình chạy. Đánh dữ lắm!”

Những ngón đòn tuyệt kỹ được tung ra. Nào côn nào quyền. Võ tàu võ ta. Gió cuộn cát bay, tiếng hò reo huyên náo cả một vùng. Võ sĩ vác heo thoát được hay không ngoài chuyện được đồng bọn hỗ trợ, cái chính là tuỳ thuộc vào tài nghệ của mình. Nếu kém tài thì bị kẻ giỏi hơn cướp tay trên. Môn phái nào đem được con heo quay về tổ đình là một vinh dự to lớn, năm đó được tiếng vô địch, học trò xin theo học rất đông.

Lễ hội đổ giàn An Thái là một lễ hội mà võ thuật bộc lộ đến đỉnh cao các phẩm chất dũng mãnh, cao thượng và nồng nhiệt. Tất nhiên, không loại trừ những yếu tố hệ quả và mặt trái như sự quyết liệt ăn thua có thể dẫn tới sát thương, hoặc mặc cảm thua cuộc nặng nề có thể chuyển thành lòng thù hận, ra sức rèn tập đợi đến kỳ hội sau rửa nhục. Nhưng vượt lên trên tất cả những vụn vặt đời thường, vẫn là hào khí thượng võ rót tràn cuộc sống sự hồi hộp và niềm vui ngây ngất.

*

Ở các lễ hội dân gian hay lễ hội lịch sử - văn hóa khác của Bình Định như lễ hội đâm trâu của đồng bào Ba-nar, lễ hội văn hóa thể thao miền núi, lễ hội văn hóa thể thao miền biển v.v., võ cổ truyền tuy không chiếm vị trí chủ đạo như trong lễ hội Tây Sơn và lễ đổ giàn An Thái, song vẫn là một nội dung không thể thiếu dưới các hình thức biểu diễn, trò chơi dân gian hay thi đấu. Biểu diễn thì có diễn võ, nhạc võ. Thi đấu thì có các hình thức đấu võ đài, phóng lao, bắn cung, đô vật. Trò chơi thì có kéo co, đua thuyền, lắc thúng, nhảy bao bố, chặt gạch, đập ấm. Đó là những hoạt động phong phú, lành mạnh, phản ánh sinh động truyền thống thượng võ của người Bình Định.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject:
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:42 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
Những đặc trưng của võ cổ truyền

1- Tính thượng võ:

là tinh thần võ hiệp cao thượng được chắt lọc và phát triển thành nguyên lý ứng xử của giới võ học, dần dần trở thành nguyên lý ứng xử bao trùm của người Bình Định. Tinh thần thượng võ gắn liền với lòng yêu chuộng nhân đạo, tôn thờ đại nghĩa, không câu chấp tiểu tiết.

Có thể đọc thấy điều đó qua nghĩa cử của Lía, một chàng trai nghèo đứng lên từ bùn đen của thân phận, buộc phải kiếm sống bằng nghề đạo chích. Nhưng không như kẻ cướp tầm thường, Lía trượng nghĩa ngay cả trong một hành vi mà xã hội vốn khinh rẻ: chỉ cướp những nhà giàu gian ác, của lấy được mang chia đều cho nhà nghèo khó, không yêu cầu đánh đổi một điều gì. Việc làm của Lía đã khiến xã hội phải nghĩ lại. Sau khởi nghĩa của Lía gần trăm năm là khởi nghĩa Tây Sơn, lại xuất hiện những “toán cướp” theo cách gọi của chính quyền phong kiến. Các giáo sĩ phương Tây đã ghi lại với sự ngạc nhiên không giấu diếm về bọn cướp lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Hiện tượng này không chỉ riêng Bình Định mới có, nhưng xét về thời điểm lịch sử, bối cảnh lịch sử và ảnh hưởng xã hội thì đây quả là cái có sớm, cái riêng, cái độc đáo của Bình Định.

Tính thượng võ của người Bình Định biểu hiện rất đa dạng. Có khi trong cùng một thời, cùng một hoàn cảnh, nhưng quan niệm mỗi người một khác nhau, dẫn đến hành xử khác nhau. Cùng là bề tôi triều Tây Sơn, nhưng cách trả lời câu hỏi cuộc đời của mỗi người một khác. Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân , Nguyễn Quang Thuỳ và một số tướng sĩ khác bị giặc bắt, đã chọn cái chết hiên ngang giữa pháp trường chứ không đầu hàng Nguyễn Ánh. Nguyễn Văn Tuyết và vợ là Trần Thị Lan (cháu gái võ sư Trần Kim Hùng) phò vua Cảnh Thịnh chạy loạn, chiến đấu đến hơi thở cuối và hy sinh anh dũng trong vòng vây giặc. Võ Văn Dũng vượt ngục ôm ấp mưu đồ khôi phục triều Tây Sơn. Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc kẻ dong ngựa ẩn thân chốn sơn khê, người lui về cầm cày nơi thảo dã. Một số võ tướng xuống tóc tu hành. Mỗi người một cách, song bất cứ sự lựa chọn nào cũng đều toát lên lòng ưu dân ái quốc, dũng khí sẵn sàng xả thân cho đại nghĩa, sự trung thành với lý tưởng, thuỷ chung với anh em bè bạn. Ở họ tuyệt đối không có tư tưởng tham sống sợ chết, hám lợi cầu vinh.

Sau thời Tây Sơn, lãnh tụ Cần Vương Mai Xuân Thưởng ra pháp trường còn xé vạt áo, cắn ngón tay lấy máu chép bài thơ tuyệt mệnh: Chết nào có sợ chết như chơi/ Chết bởi vì dân, chết bởi đời/ Chết hiếu chi nài xương thịt nát/ Chết trung đâu kể cổ đầu rơi... Hương mục Ngạc mặc áo vải, ăn rau vườn bên dải sông Kôn, một bữa kia đọc thư của bạn là tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo, cảm khái chuyện sinh dân đại nạn liền vụt dậy gọi trai tráng đôi bờ kẻ thước người côn tham gia phong trào chống thuế để bảo vệ nhân dân bị đàn áp. Phan Thọ, Đỗ Hượt thượng đài đánh thắng võ sĩ Nam Hàn; chúng cho xe đưa quà cáp tới nhà dỗ dành thế nào cũng từ chối hợp tác, cương quyết không truyền bí quyết võ thuật của tổ tiên, dân tộc cho giặc.

Võ nhân Bình Định, võ nhân Tây Sơn là vậy. Hành trạng có khác nhau, kết cục có khác nhau, nhưng trước câu hỏi lớn của lịch sử, tất cả có chung một câu trả lời: thực hiện đạo lý làm Người.

2- Tính dân gian:

Thiên nhiên hàm chứa trong nó cả sự thách thức to lớn lẫn những bài học vô tận để con người quan sát, học hỏi và đúc kết thành kinh nghiệm thích nghi và tồn tại. Nguồn gốc dân gian còn in dấu trong võ cụ như cung tên, chỉa ba, bồ cào, côn (gậy), búa rìu... cho phép ta hình dung võ đã ra đời từ con đường chinh phục thiên nhiên và lao động để sinh tồn. Các thế võ dựa vào thao tác lao động: leo trèo, săn bắt hoặc mô phỏng động tác các loài động vật: bài Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ mô phỏng từ đòn gà chọi, bài Song phượng kiếm của nữ tướng Bùi Thị Xuân mô phỏng điệu múa chim phượng; bài roi Thái Sơn bắt chước tư thế, động tác của tám con vật là rắn, lân, tê giác, thỏ, mèo, trâu, gà, hổ.

Một số bài quyền khác cũng xuất phát từ các thế giao tranh của các con vật và dùng tên của chúng đặt luôn cho bài võ như Xà quyền (võ rắn), Hầu quyền (võ khỉ), Hùng kê quyền (võ gà chọi)...

3 - Tính bác học:

Võ Bình Định nói chung và võ Tây Sơn nói riêng được xây dựng trên nền tảng học thuyết âm dương. Các môn quyền thuật cấu tạo bằng cương quyền và nhu quyền. Các môn binh khí được đúc kết và nâng cao trên cơ sở các động tác sử dụng các công cụ lao động sản xuất, là kết quả của một quá trình sàng lọc, lựa chọn rất công phu.

Hai cuốn Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ (thời kỳ trước Tây Sơn) và Tây Sơn binh pháp của Huỳnh Văn Thuận (thời kỳ Tây Sơn) được xem là võ kinh của Bình Định. Các tác giả của hai cuốn võ kinh này khi biên soạn có tham khảo và kế thừa Tôn Ngô binh pháp của Tôn Tử và Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, nhưng cốt yếu là đúc kết các nguyên lý và phép tắc của võ học Bình Định thời họ sống. Ngoài hai bộ sách chỉ còn thấy nhắc trong các thư tịch này, tại các làng võ và các gia đình võ thuật ở Bình Định, Tây Sơn còn lưu giữ khá nhiều tư liệu về võ kinh, võ lý, võ đạo, võ thuật, võ y và võ nhạc. Trong nhiều tài liệu chép tay còn có cả hình vẽ đặc tả tư thế của võ nhân kèm theo lời thiệu. Mỗi bài thiệu là một thảo võ hoàn chỉnh gồm nhiều thế liên hoàn được ghi lại dưới dạng thơ ngắn, dễ nhớ, dễ thuộc. Và riêng các bài thiệu đã là một phần di sản vô giá của võ cổ truyền Bình Định.

4 - Tính nghệ thuật:

Nói đến võ thuật, là nói đến sự tổng hòa giữa sức mạnh và vẻ đẹp cơ thể, giữa trí lực và thần sắc, kết quả của sự lựa chọn, sàng lọc để duy trì tinh hoa nghề võ.

Một đặc điểm của võ Bình Định - Tây Sơn cổ truyền là khi đánh, giữ cho chân không rời khỏi mặt đất - “túc bất ly địa”. Đây cũng có thể coi là một trong những điểm làm nên cái riêng, tiêu chí phân biệt võ Bình Định – Tây Sơn với các dòng võ khác.

Võ Bình Định, Tây Sơn gắn liền với các bài thiệu và nhạc võ. Những bài thiệu võ không đơn giản chỉ dùng để thuyết minh cho từng phân thế võ trong bài thảo, mà ẩn trong đó là những hàm ý sâu xa của các bậc tiền nhân để lại cho đời sau, không phải ai cũng nhận ra và hiểu được. Nếu lời thiệu giúp võ sinh đánh không lạc chiêu thức, thì nhạc võ trong luyện tập điều hoà tiết tấu của chiêu thức. Trong trận mạc, nhạc võ là tiếng núi sông kêu gọi ba quân tiến bước, là hiệu lệnh thúc giục tướng sĩ xung phong phá luỹ công thành, là khúc hoan ca mừng chiến thắng. Tất cả cung bậc bi tráng - hào hùng, khoan thai - bão táp truyền thẳng vào trái tim khối óc người nghe. Đặc biệt môn kỳ võ (múa cờ) ngoài tác dụng điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy, còn có hiệu quả thẩm mỹ rất lớn. Lá cờ phấp phới trước hàng quân như niềm kiêu hãnh thiêng liêng, thổi bùng ngọn lửa tình yêu quê hương đất nước trong mỗi người. Ngày nay, nhạc võ và kỳ võ đã trở thành những tiết mục trình diễn mang tính nghệ thuật cao, được xếp vào danh mục “đặc sản văn hoá” của Đất Võ, lôi cuốn và làm rung động biết bao thế hệ.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject:
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:44 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
Các bộ môn võ cổ truyền

1- Võ có vũ khí

Gồm 18 môn tương ứng với 18 món binh khí: côn, kiếm, đao, thương, giáo, kích, xà mâu, đinh ba, bồ cào, thiết bản, song tô, song xỉ, song câu, bút, phủ (búa), chuỳ, cung tên, lăn khiên.

1- Côn (roi): làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, chia làm trường côn và đoản côn. Trường côn là roi dài gồm hai thứ là roi đấu (trường tiên) dài khoảng 3m và roi chiến (trung bình tiên) dài khoảng 1,5m. Roi đấu dùng để đánh trên ngựa. Roi chiến dùng để đánh dưới đất. Đoản côn là roi ngắn.

Còn có một loại côn nữa là côn nhị khúc, làm bằng hai thanh gỗ cứng hoặc kim loại dài bằng nhau, nối với nhau bởi một sợi dây dài tết bằng tóc người hoặc bằng lông đuôi ngựa. Loại côn này gọn, mạnh, thích hợp cho lối đánh gần, có thể đổi tay phải tay trái tùy ý. Khi đánh dùng một thanh làm trụ, đánh bằng thanh kia, phóng ra thu về, biến hoá linh hoạt.

2- Kiếm: gồm chuôi kiếm, lưỡi kiếm và bao kiếm. Phần lưỡi dài, phiến dẹt, bề rộng chừng 3 - 4cm, cạnh mảnh và cực bén, rèn bằng kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Phần cán (chuôi) bằng gỗ, có khi cán cũng được đúc bằng kim loại hoặc mạ vàng, chạm trỗ rất đẹp. Vỏ kiếm được chế tạo cũng bằng kim loại mỏng và cứng, dùng để bao ngoài lưỡi kiếm, một đầu kín một đầu hở khi gài vào ăn khớp với cổ chuôi kiếm. Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng. Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc bén, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người cầm.

Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi cong, còn kiếm trận lưỡi thẳng. Lại tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm và đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m đến 1,5m, có thể giao tranh trên mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm khỏi bao khi giao đấu. Trong giao đấu, vỏ kiếm cũng là một vũ khí để đánh, đỡ, gạt, hất rất lợi hại. Tuy vậy, cũng có không ít những thanh kiếm để trần.

Thời chống Pháp trở về trước, kiếm là môn binh khí rất phổ biến trong võ thuật Bình Định. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chuyên đánh song kiếm. Ở Bảo tàng Quang Trung hiện còn lưu bức tranh Bà cưỡi voi trận, tay cầm song kiếm, uy phong lẫm liệt.

3- Đao: có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao. Đại đao là vũ khí nặng, cán dài. Người sử dụng đại đao phải có sức vóc hơn người. Triều Tây Sơn có bốn người nổi tiếng về đại đao là Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long. Đặc biệt là Võ Văn Dũng, tài sử đao của ông được Nguyễn Nhạc khen ngợi: “Phá sơn trung tặc dị, thắng Văn Dũng đao nan” nghĩa là Phá giặc trong núi dễ, thắng ngọn đao Văn Dũng mới khó.

4- Thương: là vũ khí dài, cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn ở đầu đúc bằng sắt. Cách dùng côn và thương về căn bản giống nhau, nhưng côn thiên về đả, tức đánh xuống, còn thương thiên về đâm.

5- Giáo: là loại vũ khí dài khoảng 2 - 2,5m bằng một loại tre đực đặc ruột có đầu vót nhọn bịt kim loại, dùng trong trận mạc. Cách đánh như côn, nhưng lợi thế hơn ở chỗ có mũi nhọn để đâm. Tương truyền đây là vũ khí đắc dụng của nghĩa binh Mai Xuân Thưởng, vì vùng nông thôn Bình Định rất sẵn tre.

6- Kích: là vũ khí dài, cán bằng gỗ cứng hoặc đúc bằng kim loại nặng. Phương thiên hoạ kích có một mũi nhọn ở giữa giống ngọn giáo, hai bên là hai vành đao lưỡi liềm day lưng vào nhau. Bán thiên kích thì chỉ có mũi nhọn với một vành đao lưỡi liềm. Kích nặng ở đầu nên sử dụng không được linh động như thương.

7- Xà mâu: là loại vũ khí dài, nhọn, phần trên cùng đúc kim loại uốn khúc như hình rắn.

8- Đinh ba: Là loại vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt có ba răng nhọn xỉa thẳng về trước. Đinh ba vận dụng các chiêu thức của côn, thiên về phóng, đâm, xóc.

9- Bồ cào: Cũng là vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt hình răng lược, giống như cái cào cỏ ở nông thôn Bình Định. Bồ cào cũng vận dụng chiêu thức của côn nhưng lại thiên về đập, giật.

10- Thiết bản: là một thanh kim loại vuông cạnh, dài chừng 1m, tiện dụng ở chỗ gọn gàng, con nhà võ có thể giắt bên hông hoặc sau lưng khi di chuyển.

11- Song tô: là hai lưỡi dao thép to bản, ở cán cầm có phần bảo vệ tay. Thích hợp đánh cận chiến.

12- Song xỉ: Song xỉ là vũ khí dùng cho hai tay, gồm hai thanh sắt dài, hai đầu nhọn như lưỡi dao găm, phần thân bo theo cánh tay từ chỏ ra bàn tay, phía chỏ có dây da quấn vào bắp tay, phía trước có đai sắt để luồn bàn tay vào cầm cho chắc. Đặc điểm riêng của song xỉ là gọn, sắc, mạnh, thích hợp lối đánh gần, đòi hỏi người sử dụng phải tinh mắt, giỏi quyền cước, di chuyển mau lẹ.

13- Song câu: là vũ khí đôi gồm các phần câu, phần hộ thủ, phần lưỡi được đúc liền nhau. Phần câu cong như rựa quéo, để móc, hãm vũ khí hoặc một số vùng trên cơ thể địch thủ như cổ, vai, cổ tay, cổ chân, bắp đùi, hông... Phần thân giống như lưỡi kiếm. Chuôi cầm được bọc vải, da hoặc gỗ, có một lưỡi liềm để bảo vệ tay, gọi là phần hộ thủ. Song câu được sử dụng biến ảo linh hoạt, thích hợp lối đánh vừa công vừa thủ.

14- Bút: Đúc bằng kim loại nặng, dài khoảng 5-7 tấc, phần cán tròn, đặc ruột, phần ngọn hình búp sen, cuối cán có sợi dây để buộc vào cổ tay người sử dụng, sau khi phóng ra có thể thu về. Dùng đôi gọi là song bút, dùng đơn gọi là độc bút.

15- Búa (phủ): Búa là loại vũ khí gần giống với rìu chặt cây của tiều phu. Cán búa làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi búa đúc hoặc rèn bằng sắt, thép tốt, rất nặng. Búa đơn gọi là độc phủ, búa đôi gọi là song phủ. Những chiếc búa đặc biệt trên sống còn được chạm đầu hổ hay đầu rồng rất tinh vi, gọi là hổ đầu phủ hoặc long đầu phủ. Chiêu thức của búa gồm các đòn ngắn, mạnh, trực diện, khả năng sát thương kẻ địch rất lớn, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ. Người sử dụng búa phải có sức lực hơn người, thân pháp cực kỳ mau lẹ.

16- Chuỳ: là loại vũ khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn, ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính chừng 10 – 15cm. Chuỳ cũng có chùy đơn và chuỳ đôi.

17- Cung tên: Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực, xuyên thủng được vật cứng.

Môn bắn cung phải qua nhiều giai đoạn tập luyện: giương cung, nhắm đích, quỳ bắn, đứng bắn, dưới đất, trên ngựa. Mục tiêu bắn cũng đa dạng: từ gần tới xa, từ diện đến điểm, từ cố định đến di động. Lại được dạy các mánh khóe đánh lừa kẻ địch như giương đông kích tây, giương nam kích bắc v.v. Người bắn cung giỏi có thể bắn chim đang bay, hoặc còn nói trước được mình sẽ bắn rơi con thứ mấy trong đàn. Nổi danh về bắn cung ở Tây Sơn xưa từng có La Xuân Kiều, Đặng Xuân Phong, Lý Văn Bưu.

18- Lăn khiên: Khiên là một tấm chắn bằng gỗ hoặc đan bằng cật tre, mây, dùng để đỡ gạt trong khi giao chiến, nhất là trong đánh trận, công thành. Nghĩa quân Tây Sơn rất thành thạo môn lăn khiên - một tay cầm khiên để hứng tên bắn từ xa hoặc đỡ gươm giáo khi đánh xáp lá cà, trong khi tay kia sử dụng một vũ khí khác để tấn công kẻ địch.

Ngoài ra ở vùng Bình Định còn thông dụng các loại vũ khí như rựa quéo, lao, đòn xóc, nạng, ná, khăn xéo, dù. Rựa quéo giống như cái rựa thường, sống rựa dày, lưỡi dài và to bản có mấu quéo lại ở đầu để giật, kéo. Chỉ khác rựa thường ở chỗ cán rất dài, vừa là công cụ lao động, vừa là một đoản côn khi cần. Lao cấu tạo như giáo nhưng ngắn hơn, thân lao dài chừng 1,2 - 1,5 m, dùng để phóng tầm xa, phổ biến trong săn bắn của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khăn xéo là vật tùy thân của người Bình Định xưa, làm bằng vải ta, thường vắt trên vai, dùng để chặm mồ hôi, lau mặt, che nắng; trong tay con nhà võ, nó trở thành một ngọn “nhuyễn tiên” lợi hại. Dù (hay ô) là vật dụng che nắng mưa khi đi đường, gặp khi bất trắc nó trở thành vũ khí lợi hại, có thể đâm kẻ địch bằng mũi như một ngọn giáo ngắn; có thể quật, đập, đả như côn; lại có thể móc cổ giật cho kẻ địch té nhào.

2- Võ tay không (quyền thuật)

Bao gồm tất cả các môn võ không trang bị vũ khí, chỉ dùng tay chân, chia làm cương quyền và nhu quyền, với kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm đòn công và đòn thủ. Những bài cương quyền dùng sức mạnh với mục đích tấn công áp đảo, đè bẹp đối phương nhanh. Nhu quyền hay miên quyền thể hiện những động tác thoạt nhìn mềm mại, bay bướm nhưng khi phát kình thì uy lực rất lớn. Nguyễn Lữ tự biết thể chất mình yếu ớt nên đã chọn miên quyền để luyện công, như ông từng viết trong lời thiệu bài Hùng kê quyền: “Nhu cương cường nhược tận kỳ trung”, nghĩa là mềm, cứng, mạnh, yếu đều đưa hết ra dùng.

Quyền lợi hại ở chỗ có thể không để dấu tích bên ngoài nhưng lại gây chấn thương mạnh bên trong, nếu đánh vào các yếu huyệt có thể làm đối phương chết ngay hoặc mang trọng bệnh mà không tìm ra người biết cách giải huyệt thì không cứu chữa được.

Những thế quyền tinh hoa của Bình Định, Tây Sơn được đúc kết thành các bài thảo bộ nhằm giúp người tập luyện nhuần nhuyễn và hoàn chỉnh từng chiêu thức. Đất Bình Định có các bài quyền nổi tiếng như Thần Đồng, Ngọc Trản, Lão Mai, Lão Hổ... Ngoài ra, các võ sư tiền nhân còn nghiên cứu từ các loài vật trong tự nhiên, sáng tạo thành những bài hình tượng quyền như Ngũ cầm quyền (long, hổ, báo, xà, hạc), Linh miêu hý thử, Kim xà xuất động, Kim báo quyền, Mãnh hổ xuất sơn...

Trong diễn võ, so tài, các tay quyền thường thi triển các chiêu thức vừa đầy uy lực vừa đẹp mắt, tuân theo các bài bản mẫu mực cốt để phô trương tuyệt học, công phu vi diệu. Trong chiến đấu chuyện bài bản không còn là quan trọng, mà mục đích chính là áp đảo, thậm chí sát thương đối thủ để giành phần thắng nhanh nhất.

3- Nhạc võ Tây Sơn

Tương truyền Tây Sơn tam kiệt đặt ra nhạc võ để luyện quân và khiển trận. Trong luyện tập, tiếng trống sẽ giúp người đánh võ không bị lạc chiêu thức. Trong giáp chiến, tiếng trống không chỉ là hiệu lệnh giục giã ba quân mà còn là chiến thuật tâm công đánh vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi.

Dàn nhạc võ Tây Sơn xưa gồm mười sáu trống chiến, ngoài ra còn có tù và, kèn, chiêng, phèng la… là những nhạc cụ hỗ trợ. Trống chiến là linh hồn của nhạc võ. Khi đánh trống, hai bàn tay cầm dùi trống của nghệ nhân phụ trách mười hai chiếc, bốn chiếc còn lại đánh bằng hai gót chân và hai khuỷu tay.

Dàn nhạc võ Tây Sơn ngày nay vẫn gồm đủ trống chiến, kèn bóp (hay kèn xô-na), chiêng, phèng la, nhưng chỉ còn mười hai trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...), xếp thành ba bậc trên giá đỡ, ứng với triết lý tam tài (Thiên - Địa - Nhân).

Nhạc võ Tây Sơn có hai phần: nhạc và võ. Phần nhạc được phối âm dựa trên tiết tấu chủ đạo của trống chiến trên nền âm cổ truyền, chia thành ba hồi: xuất quân, xung trận - công thành và ca khúc khải hoàn. Tiếng trống cất lên, hồn thiêng sông núi vọng về trong tiếng gió lướt, tiếng quân đi, tiếng vó ngựa thần tốc trên đường thiên lý. Khúc công thành dập dồn vang dội như nước vỡ bờ, vun vút tên bắn gươm khua, hừng hực voi gầm ngựa hí. Từ cao điểm, chợt điệu nhạc trầm xuống như lời tưởng niệm vong hồn tử sĩ rồi chuyển sang khúc khải hoàn tươi vui rộn rã. Phần võ là thủ pháp đánh trống, thực chất gồm những thế võ liên hoàn. Người đánh trống ngày nay dẫu có nhập hồn vào nhạc võ thế nào, cũng chỉ là nghệ nhân biểu diễn một bộ môn nghệ thuật, nhưng ngày xưa người đánh trống trận phải là người vừa am hiểu võ thuật binh pháp, vừa nhạy bén nắm bắt ý đồ của người chỉ huy để truyền đạt chính xác mệnh lệnh qua điệu trống. Động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ và đôi dùi trống là vũ khí, vì người đánh trống trận ngày xưa phải vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, để nhạc võ điều binh khiển trận không bị ngắt quãng. Tuy nhiên, người lính đánh trống và dàn trống trận của anh ta thường được bố trí ở trung quân, luôn được bảo vệ và hỗ trợ bởi một toán quân thiện chiến, khả năng đơn thân chiến đấu rất ít khi xảy ra.

Nhạc võ Tây Sơn bây giờ đã trở thành một di sản văn hoá độc đáo, một nghi thức truyền thống không thể thiếu trong các kỳ tế lễ ở Tây Sơn nói riêng và Bình Định nói chung, nhất là trong các dịp quan trọng như lễ hội kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, lễ kỵ Tây Sơn Tam kiệt, lễ kỷ niệm sinh nhật, lễ giỗ Quang Trung hoàng đế, lễ cúng từ đường Bùi Thị Xuân, lễ cúng từ đường Võ Văn Dũng, lễ giỗ tổ tại các làng võ. Tại Bảo tàng Quang Trung có một đội nhạc võ chuyên biểu diễn trống trận để phục vụ các lễ tiết và phục vụ du khách.

4- Kỳ võ:

Kỳ võ là phép dùng cờ lệnh để điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy. Cũng như người cử nhạc võ, người sử dụng kỳ võ phải giỏi võ thuật lẫn binh pháp. Múa cờ không đơn thuần là phất cờ, mà còn là một nghệ thuật đòi hỏi cả sức mạnh lẫn sự uyển chuyển trong thân pháp của người thực hiện.

Trên chiến trường, nơi xảy ra cuộc chiến một mất một còn giữa hai bên với bao nhiêu giáo mác cung tên, người lính cầm cờ trong tay không tấc sắt. Thế nhưng người lính cầm cờ là mục tiêu dễ nhận thấy nhất và cũng là mục tiêu mà kẻ thù muốn triệt hạ nhanh để áp đảo tinh thần phe đối địch. Sự hiện diện của người cầm cờ có quan hệ mật thiết với cả cánh quân. Lá cờ phất phới tung bay trong gió tượng trưng cho Hồn nước. Trừ khi bị trúng tên đạn, còn nếu bị tấn công theo kiểu xáp chiến thì người cầm cờ có thể dùng cờ làm vũ khí- rút cán tre làm côn, còn lá cờ dệt bằng sợi bông vải hay sợi thao càn khi cần có thể nắm chéo vung ra giật về như một nhuyễn tiên.

5- Y thuật:

Giới võ học nghiên cứu rất kỹ khoa học về thân thể con người, từ xương cốt, cơ bắp, lục phủ ngũ tạng, hệ thống các huyệt đạo. Chính vì vậy mà người nắm chắc võ lý, võ thuật thường hiểu kỹ về y thuật.

Hầu hết các võ sư đều biết các bài thuốc chữa trật gân, sai khớp, gãy xương. Phổ biến là những võ sư biết thuốc để tự chữa cho mình, cho người nhà và học trò. Có những trường hợp các võ sư chuyên tâm nghiên cứu sâu về y thuật để hành nghề như Hương kiểm Mỹ, Bầu Năm, Trần Dần ở An Vinh. Hương kiểm Mỹ giỏi về thuật bó xương, nhiều ca gãy xương hiểm hóc tới đâu qua tay ông cũng khỏi. Ông Bầu Năm giỏi về mổ xẻ, đã vá môi cho Hương kiểm Cáo khi ông này đấu đài đánh đối phương sụt sườn mỡ, còn mình bị sứt môi. Hiện nay nổi tiếng về thuật bó xương ở Thuận Nhứt có ông Mai Súng. Nhiều bác sĩ ngoại khoa nghe đồn về ông đã tìm tới nơi để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.

Y thuật trong làng võ bị chi phối bởi các quy tắc và kinh nghiệm gia truyền, đại thể thì giống nhau nhưng trong nghe, khám, chẩn, bốc có sự khác nhau từ khả năng cảm ứng, điều trị đến gia giảm vị thuốc, lượng thuốc. Dược liệu cũng xoay vần thuốc nam, thuốc bắc, các bài thuốc địa phương kết hợp với việc ứng dụng các bài thuốc trong và ngoài nước và các phương thức day, nắn, bóp, bấm huyệt, châm cứu… Công phu nghiên cứu kiến thức võ thuật và y thuật, cũng như sự tinh tế và mẫn cảm của từng ông thầy võ đã quyết định thành công và danh tiếng của họ.


 
 Profile Send private message  
 
 Post subject:
PostPosted: Sat Oct 28, 2006 2:45 am 
Offline
Đội phó
Đội phó

Joined: Wed Apr 14, 2004 12:55 am
Posts: 583
Bối cảnh xác lập ưu thế các bộ môn côn, quyền ở Bình Định

Trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, sự xâm lược của thực dân Pháp kéo theo sự xuất hiện của các loại vũ khí mới có sức công phá lớn như súng ống, đạn dược. Trong cuộc đấu tranh với quân xâm lược lấy danh nghĩa là Nhà nước bảo hộ, nhân dân ta ở vào thế bị áp bức, bị kiểm soát. Các loại vũ khí truyền thống như kiếm, cung, thương, đao dễ gây chú ý, người Việt phải tính đến phương án hoặc đủ sức thì mua súng ống đạn dược đối đầu với kẻ thù, hoặc nếu ngấm ngầm làm những cuộc nổi dậy thì phải nguỵ trang “qua mắt” giặc bằng nhiều cách, trong đó, việc chọn một vũ khí thích hợp đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đó là lý do vì sao thời chống Pháp là thời của gậy tầm vông ở Nam Bộ; bẫy đá, chông thò ở Tây Nguyên; rựa quéo, gậy (côn) và võ tay không (quyền) ở Trung Bộ, đặc biệt là ở Bình Định.

Vào thời kỳ này, tuy vẫn tinh thông thập bát ban võ nghệ, nhưng trong điều kiện bị sự kiểm soát gắt gao của giặc Pháp và tay sai, những nhà yêu nước cũng nhận thấy rằng phải lựa chọn vũ khí thích hợp. Đó là lý do nghĩa quân Mai Xuân Thưởng được rèn luyện kỹ các môn cung, giáo, côn, quyền. Cung để bắn địch khi bị tấn công. Còn giáo sào và quyền thì tận dụng đánh địch mọi nơi mọi lúc. Giáo sào làm bằng tre, một đầu vót nhọn bịt sắt, thoạt trông như một cây gậy dài, không gây chú ý của địch. Khi đánh có thể kết hợp cả chiêu thức của trường côn và thương. Lúc bị mất vũ khí, nghĩa quân giở quyền cước vừa tránh đòn vừa đánh trả đối phương, có khi còn khống chế và cướp được vũ khí trong tay giặc.

Sau khi cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Mai Xuân Thưởng thất bại, một chiến sĩ của phong trào là Võ Trứ đã lánh vào Phú Yên, gọt tóc tu hành ở một ngôi chùa nhỏ, vừa thuyết pháp vừa bốc thuốc chữa bệnh, thu phục tín đồ, ngấm ngầm vận động lực lượng cứu quốc. Khi hay tin ở Bình Định bộc phát bệnh dịch lớn, người chết như rạ, ông liền về chùa Chánh Danh huyện Phù Cát chữa bệnh cho dân bằng y thuật dưới các hình thức pháp thuật. Hồi bấy giờ nhà yêu nước Trần Cao Vân dưới lốt thầy địa lý từ Quảng Nam vào cũng đang tìm sự liên kết của những người cùng chí hướng. Qua môi giới của một thân chủ, Võ Trứ đã gặp Trần Cao Vân, bàn định kế hoạch lập căn cứ kháng chiến. Võ Trứ trở vào Phú Yên xúc tiến công việc chuẩn bị rồi rước Trần Cao Vân vào sau. Nghĩa quân của Võ Trứ được trang bị chủ yếu là rựa quéo, ná. Đội nghĩa quân áo vàng rựa quéo của Võ Trứ đã đánh giặc Pháp và tay sai vùng Phú Yên nhiều trận thất điên bát đảo. Mấy tiếng Giặc Rựa, Giặc Thầy Chùa là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với bè lũ xâm lược và tay sai. Giặc Pháp phần đàn áp ráo riết gây bao tổn thất cho nghĩa quân, phần cho bao vây các chùa chiền, bắt rất nhiều tăng ni tống ngục. Thấy lực lượng còn quá mỏng, mà số người bị liên luỵ quá đông, Võ Trứ lên động Bà Thiên ở Phú Yên để chào từ biệt Trần Cao Vân rồi xuống núi nộp mình để cứu những người vô tội.

Phong trào yêu nước chống Pháp sôi sục ở Bình Định, Phú Yên tuy bị dìm vào biển máu, nhưng nó không làm nguội đi bầu nhiệt huyết của người Bình Định mà ngược lại còn thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc và ý chí phản kháng quật cường. Nhân dân Tây Sơn, những người sống trên mảnh đất phát tích của hai phong trào khởi nghĩa lớn, càng thấm thía nỗi đau mất mát, càng nung nóng hùng tâm tráng khí. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết là bảo vệ gia đình nòi giống, chống lại sự đàn áp của giặc, kế tục xứng đáng truyền thống anh hùng của ông cha, phong trào học võ, dạy võ, luyện võ phát triển vô cùng mạnh mẽ. Do những đặc điểm của bối cảnh xã hội đương thời, hai bộ môn thời thượng được thế hệ này chuyên tâm trau dồi là côn và quyền. Để rồi sau đó, trong phong trào trai An Thái – An Vinh kháng thuế, võ Bình Định lại một lần lên ngôi từ những chiếc gậy tre mộc mạc và những đường quyền dũng mãnh.


 
 Profile Send private message  
 
Display posts from previous:  Sort by  
 [ 6 posts ] 

All times are UTC


Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 0 guests


You can post new topics in this forum
You can reply to topics in this forum
You cannot edit your posts in this forum
You cannot delete your posts in this forum
You can post attachments in this forum

Jump to:  
Powered by phpBB © 2002, 2006 phpBB Group
[ Time : 0.090s | 14 Queries | GZIP : Off ]